Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời giới thiệu - Lời người dịch

27 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11957)
Lời giới thiệu - Lời người dịch

XÃ HỘI HỌC PHẬT GIÁO
Buddhist Sociology
Nandasena Ratnapala - Thích Huệ Pháp dịch
Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn 2011

LỜI GIỚI THIỆU

Quyển Xã hội học Phật giáo của tiến sĩ Ratnapala được thầy Thích Huệ Pháp dịch là tác phẩm tương đối hoàn chỉnh và có hệ thống về chủ đề này.

Với 13 chương, tác phẩm đã khảo cứu các vấn đề liên hệ đến xã hội Phật giáo, bao gồm học thuyết chính trị xã hội, hội nhập xã hội, Phật giáo và kinh tế, phụ nữ, gia đình, giáo dục, kiểm soát hành vi xã hội, bạo lực, khủng bố, rượu, ma túysức khỏe con người.

Một xã hội cường thịnh đâu phải do đầu tư về các loại vũ khí hay sự lớn mạnh đơn thuần về kinh tế, mà phải là một xã hội vì dân, được dân ủng hộ, khích lệ đạo đức, đầu tư giáo dục, đẩy mạnh phát triển bền vững, đảm bảo hòa bình và vì hạnh phúc của dân.

Thể chế chính trị theo Phật giáo dựa trên công bằng pháp luật và đề cao dân chủ, hòa giải dân tộc, duy trì công lý, xóa bỏ hận thù, thắt chặt tình hữu nghị giữa các quốc gia (Mahavatsu). Trong 5 loại quyền lực: quyền lực chính trị, quyền lực giàu sang, quyền lực cộng đồng, quyền lực dòng dõiquyền lực trí tuệ được kinh Phật đề cập đến thì quyền lực trí tuệ được xem là quyền uy đích thực. Đầu tư và phát triển về loại quyền lực này, dân trí được nâng cao, giáo dục được phát triển, các tệ nạn xã hội được chấm dứt, luật pháp được tôn trọng, an ninh được đảm bảo, người dân được hạnh phúc và đất nước được phồn vinh.

Quan niệm chính trị đó đã được đại đế Asoka áp dụng như nghệ thuật quản trị quốc gia, nhờ đó đất nước Ấn Độ trong giai đoạn ông trị vì được phồn vinh và phát triển.

Sự phân tầng xã hội qua các hình thái giai cấp, địa vị cao thấp sang hèn, quyền lực mạnh hay yếu theo quan điểm của ba bộ Kinh Vệ Đà thuộc Ấn Độ giáo sẽ không thể làm xã hội phát triển. Theo đức Phật, chính vì vô minhtham ái, con người đã tạo ra phân tầng xã hội, các bất công giai cấp, dẫn đến tình trạng bất ổn lâu dài.

Nếu theo luật Manu, giai cấp Sát Đế Lợi (vua chúa) độc quyền về chính trị; giai cấp Bà La Môn (tu sĩ ấn giáo) độc quyền về giáo dụctôn giáo; giai cấp thương gia chăm sóc bao tử của xã hội; giai cấp cùng đinh sẽ làm nô lệphục dịch cho các giai cấp trên được xem là phân công lao động của Thượng đế, thì theo đức Phật tập cấp xã hội cha truyền con nối là hình thái bất công lớn nhất trong lịch sử con người, do một thiểu số tạo ra và áp chế đại đa số còn lại.

Nhiều nhà chính trị và tôn giáo đã sử dụng thánh kinh Vệ Đà để tôn vinh chính mình như các thiên tử, làm giàu trên sự khổ đau của người khác. Theo đức Phật, nếu các hành vi cá nhân không thể tạo ra một định mệnh thì các hành vi tập thể, bao gồm văn hóa và phong tục tập quán, không thể là sự an bài của Thượng đế.

Mỗi người từ khi sanh ra với sở đoảnsở trường, tự chọn lấy cho mình khuynh hướng nghề nghiệp, theo đó cuộc sống cá nhânxã hội được tiến triển. Nghề, một tập hợp của các nghiệp được tái lập lại với một mục đích, là sự lựa chọn của ý chí tự do. Nghề nghiệp không chọn lấy con người. Con người với ý thức, sở thích hoặc điều kiện hoàn cảnh đã chọn lấy nghề.

Tự đặt ra tập cấp rồi bắt mọi người phải theo chỉ làm xã hội ngày càng tồi tệ hơn. Theo đức Phật giải phóng tập cấp, cởi ách nô lệ khỏi Thượng đếThần linh bằng trí tuệ và hùng lực sẽ giúp cho con người đạt được tự do đích thực. Đây cũng chính là nhân quyền cao nhất mà con người có thể có.

Phật giáo xác định rằng gia đình là nơi mà các thành viên gắn bó với nhau trong huyết thống, tình cảm thân thiết, tương kính và tương trợ để xây dựng hạnh phúc cho nhau. Ngoài các tương quan gia đình giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái, anh chị em và thân quyến, mỗi thành viên còn có các tương quan xã hội giữa con người với con người, con người với luật pháp, con người với thiên nhiên.

Hạnh phúc gia đình chỉ được đảm bảo khi mọi thành viên tự nguyện cam kết sống đời đạo đứctuân thủ luật pháp. Văn hóa ứng xử với hòa kính an vui được xem là nền tảng duy trì hạnh phúc. Mối quan tâm và giúp đỡ giữa các thành viên trong gia đình sẽ góp phần giải phóng nỗi khổ đau mà mọi gia đình đang đối diện.

Theo đức Phật, phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong đời sống gia đìnhhạnh phúc xã hội, họ xứng đáng được hưởng các quyền bình đẳng. Đức Phật khẳng định phụ nữ cũng có khả năng về tri thức, tham gia quản trị quốc gia và làm thành công bất kì những nỗ lực chân chánh nào mà người nam có thể đạt được. Đức Phật là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đề cao bình đẳng nam nữcho phép họ trở thành các tỳ kheo ni cao quý.

Luật Manu của Ấn Độ giáo quy định: “Ngày cũng như đêm, người nữ phải nương tựa vào đàn ông thân quyến trong gia đình. Khi còn bé lệ thuộc vào cha. Khi lên xe hoa lệ thuộc vào chồng. Khi về già lệ thuộc con trai. Suốt đời người phụ nữ không có quyền tự chủ và độc lập” (chương 9 điều 2). Ngược lại đức Phật chấp nhận phái nữ, thông qua đời sống tu tập tâm linh, họ đã trở thành thánh nhân và có nhiều đóng góp cao quý cho cuộc đời. Giá trị bình đẳng nam nữ như một phần của học thuyết công bình xã hội, và học thuyết này đã trở thành cuộc cách mạng soi sáng nhận thức của con người.

Rượu và các chất gây say, bao gồm các loại ma túyđộc tố, theo đức Phật có khi là nguyên nhân trực tiếp, có lúc là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến các hình thái tệ nạn xã hội mà hình phạt nhà tù chỉ là một sự ngăn chặn chứ không phải là giải pháp. Ngăn cấm sản xuất, buôn bán, sử dụng rượu và các chất gây say là biện pháp ngăn chặn các hậu quả đối với cá nhânxã hội.

Rượu và các độc tố gây nhiều chứng bệnh, kéo theo giảm sức khỏe và dễ phẫn nộ bạo lực, đánh mất tự trọng, gia tăng mặc cảm, đánh mất uy tín, và quan trọng hơn là tổn giảm trí tuệ. Thực tập các phương pháp tâm linh trong đạo Phật nhằm giúp cho mọi người chuyển hóa các thói quen tiêu cực về nghiện ngập, mặt khác đảm bảo được chất liệu và chất lượng hạnh phúc cho cuộc sống.

Sức khỏe, theo Phật giáo, có thể đạt được từ lối sống lành mạnh, vượt qua các thói quen nghiện ngập, mặt khác còn liên hệ đến chế độ sinh hoạt thường nhật. Truyền thống hành khất vào buổi sáng của người xuất gia, thiền hành vài ba lần trong một ngày, hoặc đi kinh hành trong chánh niệm có khả năng giảm bệnh tật, tăng sức khỏe. Từ trạng thái kiện toàn sức khỏe của thân, người học Phật sẽ hướng đến kiện toàn sức khỏe tâm linh. Làm chủ các giác quan, tiết chế trong ăn uống, chuyển hóa tham, sân, si, dấn thân và sẽ giúp cho người tu học khỏe mạnh và sống thọ.

Sức khỏe tốt không chỉ có khả năng đẩy lùi bệnh tật mà còn giúp cho thân thể nhẹ nhàng, dẻo dai hướng đến hạnh phúc. Nếu các bệnh từ thân phải được điều trị bằng các loại dược liệu, thì các bệnh về tâm phải được điều trị bằng sự chuyển hóa.

Đạo Phật đề cao sự phòng ngừa bệnh và vệ sinh thân thể. Đức Phật khích lệ các hình thức hỗ trợ bệnh nhân bằng cách thăm viếng, chăm sóc và hộ niệm giúp họ vượt qua nỗi đau của thân để làm chủ nỗi khổ của tâm. Sống và làm việc theo gương hạnh từ bi, thực tập ăn chay, bảo vệ môi trường, thấy rõ quyền bình đẳng sự sống… là những yếu tố tích cực giúp con người sống khỏe, sống thọ và sống hạnh phúc.

Bạo lực, khủng bố liên hệ ít nhiều đến hành vi tội phạm. Phân tích nguyên nhân dẫn đến chúng sẽ góp phần ngăn chặn chúng. Trong kinh Pháp cú, đức Phật dạy phương pháp quy chiếu, “lấy mình làm ví dụ” nhằm khích lệ mọi người không tán đồng, không can dự, không đồng lõa các hình thái bạo lực và khủng bố.

Nhận thức về nỗi khổ niềm đau mà các hình thái bạo lực và khủng bố có thể ảnh hưởng đến mình sẽ giúp cho mọi người ngăn chặn mầm móng của chúng, không gây thương hại cho ai. Bạo lực khủng bốtội phạm dễ phát sinh nhưng khó kết thúc. Sự tu tập từ bitrí tuệ có khả năng giúp cho con người chuyển hóa được chúng. Theo đức Phật, tội phạm có gốc rễ từ tham, sân, si. Do đó, con người không phải là kẻ thù của con người.

Quán chiếu về “vô tác nhân” có khả năng làm giảm hận thù và trả đũa. Quán chiếu “vô thọ giả” tức “không có nạn nhân”, có thể giúp cho kẻ bất hạnh thoát khỏi khổ đau đang có. Trừng phạt tội phạm chỉ có khả năng ngăn chặn chúng. Trong khi kiểm soát hành vi xã hội bằng các nghệ thuật chuyển hóa mới có khả năng giúp xã hội phát triển bền vững.

Theo đức Phật, giảm thiểu sự nghèo đói, đảm bảo việc làm, nâng cao dân trí, bình đẳng trước pháp luật, đề cao nhân quyền, tôn trọng kỷ cương phép nước là những biện pháp hữu hiệu trong việc ngăn chặn tội phạm.

Sự phê bình của xã hộilương tâm của mỗi cá nhân có khả năng soi sáng giúp kẻ tội phạm kiểm soát hành vi xã hội của mình. “Quay đầu là bờ” được xem là nền tảng nhận thức quan trọng, theo đó người phạm tội có khả năng làm mới đời sống đạo đức. Không có cái gọi là “công lý báo thù” do các hành động bất thiện. Trừng phạt là để ngăn chặn, cải tạo và chuyển hóa thói xấu của phạm nhân. Nhận thức trên nền tảng của sự tiến bộ có khả năng giúp cho phạm nhân trở thành người hiền lương đích thực.

Trình bày xã hội Phật giáo từ các vấn đề căn bản nêu trên đã được tác giả áp dụng phương pháp so sánh kinh luật vốn là nguồn dữ liệu chủ yếu liên quan đến xã hội học. Theo tác giả, mục tiêu của quyển sách là nhằm gây tạo ý thức về sự hội nhập hoàn toàn của Phật giáo vào xã hội đương đại.

Theo thời gian, các vấn nạn xã hội xuất hiện tồn tại và phát triển. Nghiên cứu ứng dụng xã hội học Phật giáo giúp cho người đọc rút ra được các giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn và vượt qua chúng. Nếu đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người thì phạm vi nghiên cứu của xã hội Phật giáo còn đi xa một bước, bao gồm các loài động, thực vật.

Nội hàm và ngoại diên của xã hội Phật giáo rộng hơn xã hội học đời thường. Do đó sự nghiên cứu về xã hội Phật giáo của tác phẩm này chỉ là sự khởi đầu. Hành trình còn lại đang bỏ ngỏ. Kính mời quý độc giả hãy tự mình dấn bước trên hành trình đó để góp phần mở ra một xã hội hòa bình, phát triển và an vui.

Tháng 04 năm 2010

Trân trọng

Thích Nhật Từ
Phó viện trưởng HVPGVN tại TP.HCM

 


 

LỜI NGƯỜI DỊCH

 

Năm 2001, sau khi tốt nghiệp khoa Xã hội học trường đại học Khoa học - Xã hội và Nhân văn tại thành phố Hồ Chí Minh, kể từ đó, tôi luôn trăn trở để tìm hiểu xem liệu rằng trong giáo lý Phật giáotư tưởng về Xã hội học hay không. Bẵng đi một thời gian, theo đuổi những công việc không liên quan tới học thuật, tôi trở lại môi trường đại học mà lần này sang tận Ấn Độ - cái nôi của Phật giáo - để học tập và nghiên cứu tại trường đại học Delhi vào năm 2006. Tại đây, tôi đã tiếp cận được nhiều học thuyết mới từ những giáo sư danh tiếng tại Ấn Độ cũng như tài liệu về nhiều phương diện từ các học giả ở các nước. Từ đó, duyên đã tới, tôi được giới thiệu để dịch quyển sách mà tôi rất tâm đắc là cuốn Xã hội học Phật giáo. Tôi đã quyết định dịch quyển sách này trong thời gian chờ khóa học tiến sĩ Phật học sắp tới. Tôi mạo muội và cố gắng hết sức để góp một quyển sách nhỏ vào tủ sách Phật giáo nước nhà.

 Không cần nhiều lời để giới thiệu về cuốn sách vì giáo sư Nandasena Ratnapala - giáo sư trường đại học Sri Jayawarde- nepura, Sri Lanka - trong lời dẫn của mình đã giới thiệu đầy đủ và chi tiết. Trong khi dịch, có những câu Pháp cú, tôi xin trích nguyên văn lời dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu, mà theo tôi, bảng dịch của Hoà thượngchuẩn xácdễ hiểu nhất. Ở đây, tôi chỉ muốn nói lời cảm ơn tới những người trực tiếp cũng như gián tiếp giúp tôi hoàn thành tác phẩm này.

 Trước hết, xin gởi quyển sách nhỏ này đến sư phụ của con: Thượng toạ Thích Trí Viên, chùa Kỳ Viên Trung Nghĩa – Nha Trang, Người luôn khuyến khích các đệ tử học, học và học mãi. Nếu không có lời sách tấn của Người, con sẽ không có được Chân Huệ Mạng như ngày hôm nay. Gởi đến sư huynh Thích Huệ Giáo, người đã trợ duyên rất lớn để sư đệ có mặt tại Ấn Độ ngay từ những ngày đầu tiên. Gởi tới song thân Phụ mẫuphật tử chùa Kỳ Viên Trung Nghĩa những lời thân thương nhất, quý vị đã đem từ hạt gạo, hạt muối và góp công sức để nuôi Tăng chúng Kỳ Viên trong đó có tôi, cho đến hôm nay và còn tiếp tục đến ngày mai. Lời cảm ơn chân thành tới các vị ân nhân trong và ngoài nước trực tiếp cũng như gián tiếp trợ duyên để Huệ Pháp tiếp tục con đường học vấn.

 Và cuối cùng, chân thành tri ân tới đại đức tiến sĩ Thích Hạnh Chánh, Người đã không những giới thiệu cuốn sách này để con dịch thuật mà còn động viên trong suốt quá trình làm việc. Ngoài ra, thầy cũng là người kiểm tra bảng dịch của con trước khi in ấn. Con tỏ lòng thành tri ân đến thầy.

 Bằng tất cả nỗ lực của mình, trong quá trình dịch thuật không tránh khỏi sơ suất, tôi mong nhận được những lời chỉ dẫnphê bình từ quý vị thiện hữu tri thức.

Trân trọng, Thích Huệ Pháp
(Delhi, mùa đông- 2008)
(thư điện tử gởi về: huephap@gmail.com)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6313)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8557)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5275)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5839)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7473)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6384)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5976)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4766)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5711)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5895)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6139)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6617)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5964)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7086)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6692)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4826)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4959)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7743)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9848)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7564)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5353)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6449)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5456)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5873)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6433)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5714)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6457)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7078)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6306)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10684)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6695)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6205)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6757)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6154)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6521)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5537)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8275)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5752)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7577)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6268)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9672)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4075)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6402)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4193)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4317)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4783)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5346)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5299)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5834)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6805)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5565)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4512)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5343)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 5015)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4379)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6884)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4628)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8431)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7229)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8388)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant