Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 6: Phụ nữxã hội

27 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12291)
Chương 6: Phụ nữ và xã hội

XÃ HỘI HỌC PHẬT GIÁO
Buddhist Sociology
Nandasena Ratnapala - Thích Huệ Pháp dịch
Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn 2011

Chương 6: Phụ nữxã hội

Thân phận của người phụ nữ trong xã hội trọng nam khinh nữ thời đức Phật tại thế, được Ngài đề cập trong nhiều bài thuyết pháp khác nhau. Nơi mà một bé gái sinh ra bị xem là một thảm họa, đức Phật đã dạy rằng: “Có một số thiếu nữ, thưa đức vua, đôi khi còn tốt hơn con trai. Vì thiếu nữ ấy khi trưởng thành, có trí tuệđức hạnh, được cha mẹ chồng vị nể. Rồi sinh được con trai, là anh hùng quốc chủ của một quốc gia”(1). Ngài đã nói lời này cho đức Vua Pasedani nước Kosala, người đang thất vọngnghe tin hoàng hậu hạ sanh công chúa.

Theo tư tưởng Phật giáo, người phụ nữ không được xem như là một phần của người chồng, cũng hoàn toàn không phải là tài sản hay thuộc sở hữu của người chồng. Phật giáo giải phóng phụ nữ thoát khỏi tình trạng vật sở hữu để tồn tại một cách độc lập trong xã hội. “Phật giáo cho rằng, những người phụ nữ như: Người độc thân, có chồng, góa phụ thì không có giới hạn về quyền và bổn phận của họ đối với việc sinh con hay nuôi con, và họ là một phần không thể tách rời của xã hội”(2).

Chức năng làm mẹ là bản chất đặc trưng của tất cả giống cái, là thiên chức của người phụ nữ. Một cô gái trẻ sẽ trở thành người mẹ tương lai, rồi có người đang làm mẹ và những người đã làm mẹ. Thậm chí, ngay cả người không thể có con thì họ vẫn có đó thiên chức làm mẹ. Do vậy, đối với những phụ nữ độc thân vẫn được xã hội kính trọng như bao phụ nữ khác.

Đức Phật dạy rằng, phụ nữ cũng có khả năng chứng quả giải thoát như nam giới. Một lần nọ, Ngài đã trả lời về câu hỏi có liên quan đến phụ nữ của vị thị giả Ānanda:

 

“Này Ānanda, chư Phật ra đời không chỉ đem lại lợi ích cho nam giới mà còn đem lại lợi ích cho nữ giới. Khi Ta thuyết kinh Tiro Kudha, đã có nhiều phụ nữ chứng ngộ đạo quả. Hay khi nói kinh Adhidhamma ở Tantía, có nhiều phụ nữ thuộc giai cấp cùng đinh chứng quả, chứ không phải những phụ nữ thuộc giai cấp cao hơn như thương gia hay Sát-đế-lợi. Cánh cửa giải thoát rộng mở cho nam lẫn nữ giới mà không có bất cứ sự phân biệt nào”(3).

Khi chồng của mình xuất gia trở thành một vị tỷ kheo trong Tăng đoàn của Phật, người vợ đó đã từng cảm thán như sau: “Đức Phật hiện ra nơi đời không chỉ lợi ích cho nam giới mà còn cho cả nữ giới chúng tôi”(4).

Cả nam và nữ đều có thể chứng đắc thánh quả khi thực hành theo lời Phật dạy. Giải thoát tối hậu không là đặc quyền cho bất kỳ giới tính nào. “Như cỗ xe chở người, bất luận nam hay nữ. Cũng thế, chiếc xe chánh pháp chờ đón họ thẳng tới niết bàn”(5).

Tỷ kheo ni Somā, người từng bị Ác ma quấy nhiễu khi đang thiền định. Ác ma đã lầm khi coi thường khả năng về chứng đắc thánh quả của bà. Ác ma khinh khỉnh:

“Địa vị khó chứng đạt,

Chỉ thánh nhân chứng đạt,

Trí nữ nhân hai ngón,

Sao hi vọng chứng đạt”.

Vị tỷ kheo ni Somā từ tốn ngâm kệ đáp rằng: “Nữ tánh chướng ngại gì,

Khi tâm khéo thiền định,

Khi trí tuệ triển khai,

Chánh quán pháp vi diệu”(6).

Lời lẽ khinh thị nữ giới của Ác ma rõ ràng lặp lại niềm tin của thời kỳ đó là phụ nữ bị cho là rất hạn chế về khả năng phát triển về tinh thần.

Lúc bấy giờ, mặc dù Ấn độ là một xã hội trọng nam khinh nữ, nhưng trong các kinh điển của Phật giáo, không đề cập đến sự phân biệt giới tính trẻ con(7). Các tu sĩ Phật giáo không thừa nhận việc con trai nối dõi tông đường khi cha chết như các tu sĩ Bà-la-môn. Trong văn học Phật giáo cũng đề cập đến chuyện nhận bé gái làm con nuôi, và người mẹ nuôi đã dành tình thương cho đứa con nuôi như con đẻ của mình: “Này con gái, trước đây là con của Ngài đại phú Bhaddhvattiya; nhưng kể từ hôm nay, con sẽ trở thành đứa con gái ngoan của ta”(8).

Người phụ nữ đến tuổi phải lấy chồng và sinh con. Người phụ nữ độc thân bị khinh thường trong xã hội Ấn Độ thời ấy. Kinh Mi Tiên Vấn Đáp, một bộ kinh thuộc giai đoạn sau, đã phản ảnh như sau: “Tâu Bệ hạ, trên thế gian này có mười hạng người đáng bị khinh miệt, chỉ trích, chê trách; trong đó phụ nữ không chồng là một trong mười hạng người này v.v..”. Nhưng nội dung giáo điển của Phật giáo thì phản đối quan điểm này. Với sự ảnh hưởng của Phật giáo, phụ nữ độc thânthể không bị thành kiến, sống chan hòa, vui vẻ, bình đẳng với mọi thành viên gia đình; chăm sóc cha mẹ, trông nom em trai và em gái của mình. Sự thành lập Ni đoàn đã làm tăng thêm giá trị của nữ giới đặc biệt là các phụ nữ độc thân. Khả năng được chấp nhận gia nhập Ni đoàn mở ra cho những phụ nữ này một chân trời mới.

Phụ nữ dường như phải lấy chồng ở độ tuổi từ mười sáu đến hai mươi. Thời đó, việc tảo hôn, Phật giáo không bao giờ chấp nhận, rất phổ biến trong xã hội. Tính độc lập của người phụ nữ được nâng cao trong thời đức Phật, thậm chí vai trò mang tính truyền thống của người cha là kén rể cho con gái, bất luận con mình có thích hay không, đã bị suy giảm đáng kể.

Một điểm thú vị để nói ở đây là Phật giáo khuyến khích việc tặng của hồi môn cho con gái khi đám cưới. Của hồi môn này là tài sản riêng của cô dâu và không bao giờ được xem như là cái giá mà gia đình cô dâu phải trả cho bên gia đình nhà chồng, cũng như không bao giờ giao hết cho gia đình nhà chồng. Của hồi môn là của để dành, sẽ giúp người vợ một khi cần dùng đến. Trong kinh có ghi lại việc những người phụ nữ đã trao lại của hồi môn này cho chồng mình trước khi xuất gia(9). Thực tế cũng cho thấy, mặc dù đã lấy chồng, nhưng của hồi môn hay tài sản riêng tư của người phụ nữ luôn là một phần thiết yếu của họ.

Tư tưởng Phật giáo nói rằng, không có sự phân biệt về giới tính trong mức độ chứng đắc Thánh quả hay mức độ phát triển tinh thần. Cấp độ chứng đắc Thánh quả của nữ giới không khác với những gì mà nam giới đạt được. Vào thời đó, khi tỷ kheo ni Mahā Pajāpati Gotami sắp tịch diệt, đức Phật đã tán thán như sau: “Này Gotami, hãy thể hiện thần thông để đập tan những tư tưởng sai lầm của những kẻ ngu si đang nghi ngờ về khả năng chứng đắc Thánh quả của nữ giới”(10). Những lời tán dương trên của đức Phậtgiá trị như là một bằng chứng chứng tỏ sự xem trọng khả năng của nữ giới ngang bằng với nam giới. “Với một sự hiểu biết sâu sắc, đức Phật xác định đặc điểm giá trị của nữ giới và đặt giá trị này một cách hài hòa vào trong cơ cấu xã hội”.

 

Người phụ nữ là một thành viên dễ mến trong gia đình, nắm giữ nhiều mối quan hệ, và được các đứa con yêu quý của mình kính trọngthương yêu. Đức Phật cho rằng giới tính không quan trọng trong các vấn đề như nhân cách và vai trò trong xã hội, thậm chí, người phụ nữ có thể cạnh tranh được với đàn ông(11).

Trong gia đình, tình yêu được xem là vấn đề then chốt trong cuộc sống vợ chồng. Vợ chồng phải chung thủy với nhau. Trong công việc, vai trò của vợ và chồng phải hỗ tương lẫn nhau. Người chồng phải tin tưởng nơi vợ mình và xem vợ mình như “vị thần” trong gia đình. Ngược lại, người vợ phải có trách nhiệm chăm sóc tổ ấm của mình. Giúp con cái hòa nhập với xã hội là một trong những khía cạnh quan trọng về vai trò của người mẹ. Người vợ là người bạn đời chung thủy nhất của người chồng. “Một người vợ chỉ biết sợ chồng, phục tùng chồng thì không phải là người vợ thật sự”. “Món quà quý giá nhất của đàn ông trên trái đất này chính là có được người vợ tốt”.

Vai trò giới tính của phụ nữ được nhấn mạnh trong mối quan hệ với người chồng. “Tất cả năm thứ giác quan làm thỏa mãn tâm ý của đàn ông đều tập trung vào ngoại hình của người phụ nữ”(12). Bổn phận và nhu cầu về quan hệ vợ chồng là bình đẳng. Vì thế, việc quan hệ trước hôn nhân được xem là không thích hợp, cũng như sau khi đã kết hôn, chung thủy được xem là đức tính cần được giữ gìn, không nên vi phạm. Sự chung thủy không phải chỉ xuất phát từ phía người vợ. Người chồng chỉ nên thỏa mãn nhu cầu về ‘quan hệ’ với vợ mình, không được trăng hoa với phụ nữ khác; và ngược lại, người vợ cũng như thế. Người vợ nên hiểu rằng, giúp chồng thỏa mãn nhu cầu ‘quan hệ’ là bổn phận của mình. Nếu không, người chồng sẽ khó giữ chung thủy với vợ mình và tìm kiếm người đàn bà khác, điều đó sẽ hủy hoại thanh danh và đổ vỡ hạnh phúc gia đình.

 

Trong xã hội thời đức Phật, những bà góa phụ rất đáng thương hại. Đức Phật dạy không nên đưa ra bất kỳ lý do nào để lăng mạ hay xỉ nhục những người góa phụ, thậm chí cũng không được gán cho họ biểu tượng như là phụ nữ vận đen. Trong giáo lý Phật giáo cũng không chấp nhận việc hạn chế các quyền lợi của người góa phụ như mất quyền thừa kế tài sản, bảo vệ tài sản hay không được tham gia các lễ hội v.v.. Phật giáo cho rằng, người góa phụ có quyền tái hôn, và nếu muốn, họ có thể xuất gia trở thành tỷ kheo ni trong giáo đoàn của đức Phật.

Trong văn học Phật giáo, chúng ta có thể bắt gặp những người phụ nữ bằng năng lực tinh thầntrí tuệ của mình đã chứng quả giải thoát. Các vị tỷ kheo ni như Mahā Patāpati Got- ami, Yasodharā, Utpalavannā, Kisāgotami và Patācārā là những người nằm trong số Thánh đệ tử Ni của đức Phật. Họ là những người phụ nữ đã phát triển về trí thứctinh thần, tất cả sự chứng ngộ hay thành tựu của họ đều ngang bằng với thành quả cao nhất của nam giới.

Một vài vị tỷ kheo ni được đức Phật công nhận đứng đầu trong một lĩnh vực chứng đắc nào đó giống như cách mà các vị tỷ kheo tăng được công nhận. Tỷ kheo ni Dhammadinnā được đức Phật công nhậnthuyết pháp đệ nhất trong hàng ngũ Ni chúng, tỷ kheo ni Bhaddakapilā đệ nhất về túc mạng trí, tỷ kheo ni Sukulā đệ nhất về thiên nhãn, tỷ kheo ni Sonā đệ nhất về tinh tấn v.v...

Nữ học giả Horner(13) đã đưa ra một kết luận rất thâm thúy về địa vị của người phụ nữ trong tư tưởng Phật giáo qua những dòng đáng nhớ sau: “Từ những chứng cứ tồn tại trong văn học Phật giáo, chúng ta có thể nói rằng vị trí của nữ giới trong xã hội Ấn Độ thời đức Phật rất đáng ganh tỵ, rất đáng tôn kính mà trước thời kỳ này chưa hề có. Người phụ nữ và những góa phụ đã không còn bị xã hội khinh rẻ hay bị xem là nỗi thất vọng của gia đình. Họ đáng nhận được nhiều kính trọng hơn và xác lập được địa vị cá nhân mình trong xã hội. Họ có được tự dođộc lập hơn để tự quyết định cuộc sống cá nhân mình”.

‘Nô lệ’ hay người đày tớ là một hiện tượng không xa lạ trong xã hội Ấn Độ thời đức Phật. Một cách hiển nhiên, họ bị xem nhưtài sản của chủ nhà. Phật giáo không chấp nhận việc chiếm hữu nô lệ và kêu gọi quyền tự do cho các nữ đày tớ. Thời đó, có những đày tớ như là bà Khujjuttarā (nữ cư sĩ được đức Phật tán dương là đệ nhất Thanh văn trong hàng nữ cư sĩ)(14) không chỉ được tự do sau khi chuyển đổi từ đạo khác sang đạo Phậtđịa vị xã hộitinh thần của bà còn được nâng cao hơn vì được Hoàng hậu Sāmāwathi tín nhiệm.

Những phụ nữ hành nghề gái điếm cũng được xuất gia trong giáo đoàn Ni chúng của đức Phật. Một trong số đó có những vị sau này trở thành nữ đệ tử xuất sắc của đức Phật như: Padumāwati, Addhakāsi và Ambapāli. Trong kinh có mô tả về lầu xanh hạng sang do một người tên là Kāli làm chủ: “Ở lầu xanh này, toàn là những thương gia giàu có, hay các bậc quyền quý lui tới, mỗi lần như thế, họ phải chi trả hàng ngàn đồng tiền vàng để vui chơi. Họ phải chi năm trăm đồng tiền vàng để bao một người đẹp, năm trăm đồng khác chỉ để thuê quần áo bận qua đêm, nước hoa và vòng hoa thơm. Sáng hôm sau, họ phải trả lại trang phục đã thuê và ra về với quần áo đã bận khi đến”(15).

Tám bổn phận và khả năng sau mà một nữ cư sĩ Phật giáo nên tu tập để làm tròn hai vai trò cao quý là làm mẹ và làm vợ của mình trong một gia đình(16):

 

1. Sắp xếp các việc trong gia đình một cách hiệu quả.

2. Quan tâm đến người phục dịch.

3. Cố gắng làm vui lòng chồng.

4. Khéo bảo quản tài sản mà chồng kiếm được.

5. Có niềm tin vào tôn giáo.

6. Giữ gìn tiết hạnh.

7. Tốt bụng

8. Rộng lượng.

Có những nghi vấn đặt ra xung quanh vấn đề tại sao đức Phật một mặt thừa nhận phụ nữ có khả năng thành tựu về mặt tinh thần như nam giới nhưng mặt khác đã cố ý trì hoãn việc cho họ xuất gia. Để hiểu được điều này, trước hết chúng ta nên bình tâm để nhớ lại quan niệm xã hội đối với người phụ nữ trong xã hội Ấn Độ thời bấy giờ.

Luật Manu(17) nói rằng: “Ngày cũng như đêm, người phụ nữ phải nương tựa vào những người đàn ông thân quyến trong gia đình. Nếu tham gia vào những hoạt động vui chơi, họ cũng phải chịu sự kiểm soát. Khi còn bé, người cha sẽ bảo vệ họ, sau khi lấy chồng, người chồng sẽ bảo vệ họ, và khi già, con trai sẽ bảo vệ họ; người phụ nữ không bao giờ có quyền tự chủ hay độc lập”.

Công luận xã hội thời đức Phật ảnh hưởng nặng nề bởi những loại quan niệm này. Là người thực tế, Ngài luôn đặc biệt chú ý đến dư luận trước khi bắt đầu xúc tiến các bước cải cách.

Điều này thể hiện rõ trong cách mà đức Phật ban hành giới luật. Đa số các điều luật được ban hành là do sự thúc đẩy, đề nghị của công chúng. Khi phụ nữ yêu cầu được xuất gia, có lẽ đức Phật đã suy nghĩ về thái độ tiêu cực của dân chúng đối với việc đổi mới này. Biện pháp nào tốt nhất để thay đổi thái độ này nhằm tạo thuận lợi cho các bước cải cách như thế?

Phản ứng của xã hội về điều này chính là mối bận tâm của đức Phật. Vì rằng, sự tồn tại của hai chúng xuất gia tỷ kheotỷ kheo ni phụ thuộc vào sự ủng hộ của người thế tục - nam, nữ cư sĩ - không có họ, cộng đồng xuất gia Phật giáo không thể hoạt động được.

Khi người mẹ kế và người vợ thời đức Phật chưa xuất gia, cùng với những người phụ nữ trong hoàng tộc họ Thích đến cầu xin xuất gia, Ngài liền từ chối. Sau đó, họ bắt đầu cuộc hành trình dài đi từ thành thị này đến thành thị khác. Người dân nơi họ đi qua cảm thấy xúc động khi nhìn cảnh tượng này. Người dân tự hỏi: “Phải chăng người phụ nữ đi đầu là dì mẫu của Thái tử Siddhārta khi mẹ ruột của Ngài qua đời. Bà đã chăm sóc thái tử như con đẻ của mình. Và kia có phải là công chúa Yosodharā, vợ của thái tử Siddhārta? Những người phụ nữ quý tộc này rất buồn vì không được xuất gia trong giáo Pháp của đức Phật. Tại sao đức Phật không cho họ xuất gia?

Sau đó, Tôn giả Ānanda, vị đệ tử thị giả hỏi đức Phật phải chăng người phụ nữ không có khả năng chứng ngộ giải thoát như nam giới, thì Ngài trả lời rằng phụ nữ có thể chứng ngộ giải thoát như nam giới(18). Dường như thái độ miễn cưỡng ban đầu của đức Phật để tạo ra một không khí hệ trọng trước khi thực hiện các bước kế tiếp. Kinh sách ghi lại rằng, đức Phật đã từ chối đến lần thứ ba nguyện vọng xin xuất gia của dì mẫu và đoàn tùy tùng.

Đức Phật thường đo lường thái độ của công chúng và điều này thể hiện rõ trong một số điều luật được ban hành để Tăng chúng thực hiện. Ví dụ rõ ràng nhất đối với điều này chính là luật về thông tin được công bố để chống lại Devadatta. Một nhóm tỷ kheo dẫn đầu bởi hai vị đệ tử lớn nhất của đức PhậtTôn giả Sāriputta và Tôn giả Moggalāna được phái đi tới thành Rājagaha để báo cho dân chúng biết hành động này, nghĩa là tìm kiếm sự ủng hộ của dân chúng, nếu không có sự ủng hộ của công chúng thì không thể thực hiện hành động trên. Hay như trong trường hợp một cô gái trẻ bị phần tử đối lập Phật giáo mưu sát trong khuôn viên tu viện, đức Phật đã dạy các tỷ kheo cung cấp sự thật cho công luận biết để họ hiểu. Hay như việc đức Phật cố tình cư trú trong rừng Pārileyya nhằm thúc đẩy dư luận lên tiếng chống lại hai bè phái tỷ kheo mải mê cãi cọ, tranh luận không nghe lời khuyên của Ngài.

Một khi công luận đã có cái nhìn thiện cảm đối với việc đi bộ một quãng đường dài để cầu xin xuất gia của quýdòng họ Thích-ca, thì đó chính là cơ hội tốt để đức Phật cho phép thành lập Ni chúng. Các nhà nghiên cứu về xã hội học không dễ dàng bỏ qua việc tìm hiểu động cơ của đức Phật khi Ngài ba lần từ chối cho phụ nữ xuất gia. Ngài biết rằng, sự từ chối của Ngài sẽ khiến cho họ càng thêm quyết tâm thực hiện cuộc tuần hành, và chính cuộc tuần hành đó đã gây thiện cảm đến người dân, thúc đẩy một sự hưởng ứng công khaitích cực.

Một lý do khác cho việc miễn cưỡng chấp nhận nữ giới xuất gia chính vì có liên quan tới vấn đề tổ chức một đoàn thể Tăng già (bao gồm cả tỷ kheo tăng và tỷ kheo ni); “Dường như đức Phật rất thận trọng khi chấp nhận cho nữ giới xuất gia, vì rằng điều này có liên quan đến vấn đề tổ chức cộng đồng thành một đoàn thể thống nhất. Rõ ràng là Ngài đã gặp sự chống đối mạnh mẽ về lập trường giải phóng phụ nữ. Nhưng vì quan tâm đến lợi ích chung của một đoàn thể thanh tịnh, hạt nhân của một tổ chức tôn giáo, phụ nữ chắc chắn phải chịu hi sinh một số mặt nào đó, thậm chí phải từ bỏ những gì có vẻ như là quyền lợi chính đáng của họ. Ta thấy rõ điều này qua Bát-kỉnh-pháp như là những điều kiện cần thiếtđức Phật quy định trước khi chấp nhận họ vào đoàn thể xuất gia”(19).

Nhìn vấn đề từ nhiều góc cạnh khác nhau, người ta có thể đưa ra những lời giải thích hợp lý cho thái độ miễn cưỡng của đức Phật trong việc thành lập Ni chúng. Có lẽ chính bà dì mẫu Mahāpajāpati là người đưa ra lời phản đối lập tức vì bà đã quen với một cuộc sống giàu sang phú quý, chưa bao giờ quen với việc khổ cực, và trên hết, không thể tưởng tượng được việc một hoàng hậu cao quý lại có thể đi khất thực từng bữa ăn. Có thể chính vì lòng bi mẫnđức Phật từ chối cho bà xuất gia, vì Ngài không đành lòng để bà chịu đựng một cuộc sống khó khăn nơi hoang vắng(20).

Trong số các nguyên nhân được đưa ra trong vấn đề này, còn có một nguyên nhân quan trọng khác là sự an toàn của phụ nữ. Cho phép phụ nữ xuất gia, sống đời sống không nhà thì đòi hỏi phải có rất nhiều những biện pháp phòng ngừabảo vệ. Phụ nữ luôn là nỗi thèm khát dục vọng của cánh mày râu, vì thế nguy hiểm luôn thường trực bên họ. Đức Phật rất lo về vấn đề này (21).

Phụ nữ được xem như nhân vật không thể thiếu trong việc nội trợ gia đình. Nếu cho phép họ xuất gia thì sẽ có rất nhiều phụ nữ khác cũng xin xuất gia, điều đó gây ra một số vấn đề nghiêm trọng. Gia đình sẽ mất đi rường cột và ngay cả Tăng chúng cũng mất đi sự hỗ trợ của các nữ thí chủ vì sự hiện diện của phụ nữ trong gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các hoạt động hỗ trợ như cúng dường thực phẩm cho Tăng chúng.

 

Rõ ràng rằng, sự lần lữa đối với việc thành lập Ni chúng của đức Phật không phải vì quan niệm về vị trí thấp hèn trong xã hội của người phụ nữ. Phật giáo đặt vị trí của người mẹ và người cha ngang bằng nhau khi so sánh với trời. Có lẽ việc đề cao phẩm giá người mẹ lên địa vị Phật đang sống trong nhà ở một vài quốc gia theo Phật giáo như Sri-Lanka chẳng hạn, cho thấy Phật giáo luôn kính trọngquý mến phụ nữ.

 


1. KS.I, iii
2. Horner, I.B., Women under Primitive Buddhism, London, 1930; 3
3. Rhys David’s The Psalms of the Early Buddhists, XXV, Intro
4. A A I, 176
5. S, I, 5; M.I, 165.
6. S.I, 129 – theo bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu
7. S.I, 323
8. VIN. IV, 108; DhA I, 187
9. Therigathā Commentary XXXVII
10. Quoted by Dhirasekera, Sambhāsā, 1991, 299
11. Dhirasekera, Jothiya, “Women and the Religious Order of the Bud-dha” Sambhāsā. 1991, 297
12. A. III, 69
13. Horner, I.B., Women under Primitive Buddhism, London, 1930;82.
14. DhA. Verses 21-23
15. Dha. Verse 3; Cf.J. 318, 481
16. A. IV, 271
17. IX, 2 (Luật Manu là những điều răn của Thánh Manu về hành vi, lẽ sống, được viết vào khoảng từ thế kỉ thứ II trước Công Nguyên đến cuối thế kỉ II sau Công Nguyên. Đây là một trong những sử liệu quan trọng nhất về xã hội và nhà nước Ấn Độ cổ đại. Toàn bộ Đạo luật có 2.685 điều; trích từ: Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam – người dịch chú thích thêm).
18. A IV, 278; Vin II, 284
19. Dhirasekera, Jothiya, “Women and the Religious Order of the Bud-dha” Sambhāsā, 191; 301
20. Kabil Singh., Bhikkhu Pātimokkha, Varanasi, 1983, 24
21. Op.cit. 25-26

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13536)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly...
(Xem: 12646)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14533)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38539)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14668)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14666)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14091)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14984)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16585)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29958)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16249)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15582)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14936)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14934)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17919)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15627)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38735)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26790)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39709)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50847)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38800)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35116)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18349)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16516)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42472)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39304)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35664)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17506)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46584)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17184)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28522)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 19022)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17630)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17140)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17597)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16561)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16950)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30920)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16968)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18547)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18513)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17413)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18188)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17106)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23554)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 17051)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17489)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17729)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17110)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15780)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18088)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17456)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17263)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29587)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27794)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18203)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16140)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15395)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23099)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14873)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant