Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 12: Phật giáo với các vấn đề xã hội như: Rượu và các chất làm say

27 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12101)
Chương 12: Phật giáo với các vấn đề xã hội như: Rượu và các chất làm say

XÃ HỘI HỌC PHẬT GIÁO
Buddhist Sociology
Nandasena Ratnapala - Thích Huệ Pháp dịch
Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn 2011

Chương 12: Phật giáo với các vấn đề xã hội như: Rượu và các chất làm say

Trong năm giới cơ bản mà người phật tử tiếp nhận, thì giới thứ năm liên quan tới sự tự nguyện không uống rượu và các chất gây say. Các chất gây say ở đây bao gồm cả các thứ nước lên men và không lên men cũng như các loại ma túy gây nghiện và say xỉn.

Trong luật tạng có nói đến một loại rượu mạnh dùng trong y học, tên là Majja. Còn rượu dùng để uống thì có tên là Surā. Có một số loại Surā được liệt kê trong luật tạng như sau: Piṭṭhaurā là một loại rượu làm từ gạo; Puvaasurā được làm từ các loại bánh ngọt; Odanasurā được làm từ gạo nấu chín và thêm vào chất lên men và hương vị; Meraya được làm từ chiết xuất các loại hoa quả, mật ong và thêm hương vị. Ngoài ra, còn có hai loại rượu khác tên là Kāpotikā và Pasannā(1).

Mặc dù thuộc các điều luật ít quan trọng (giới này nằm trong phần Ba-dật-đề ít quan trọng hơn so với các giới khác nằm trong phần Ba-la-di hay Tăng-tàn) trong bộ luật được quy định cho các tỷ kheo, rượu vẫn bị ngăn cấm, nhưng trong những trường hợp khác (chẳng hạn đối với cư sĩ tại gia) không thấy đề cập tới hình thức vi phạm khi sử dụng các chất say này. Ngay cả khi một vị tỷ kheo vi phạm, thì hình phạt mà thiên Ba-dật-đề quy định chỉ là ‘sám hối thì liền hết tội’.

Giới cấm uống rượu hay các chất say ra đời trong hoàn cảnh sau: Có vị tỷ kheo tên là Sāgata trong một dịp thuần hóa được một con rắn hổ mang hung dữ bằng năng lực tinh thần của mình, nên được mọi người xung quanh khen ngợi và mời uống rượu chúc mừng. Vì quá say nên vị tỷ kheo đó đã nằm lăn tại cổng thành. Những tỷ kheo khác biết được đã khiêng anh ta về tu viện trong một tình trạng hết sức tệ hại. Khi đức Phật đến thì Sāgata vẫn còn nằm sóng soài, không thể đứng dậy nổi, hai chân hướng thẳng về đức Thế Tôn. Nếu không say rượu, Sāgata đã không có thái độ bất kính này.

Sau đó, đức Phật đã hỏi những tỷ kheo khác về chuyện này: “Trước đây, tỷ kheo này có lối cư xử bất kính đối với Như Lai như vậy không?” Họ đáp rằng: “Dạ không, thưa Thế Tôn”. “Vậy nguyên nhân gì khiến tỷ kheo Sāgata thay đổi thái độ như thế?” “Dạ đó là hậu quả của việc uống rượu”. Sau đó, Ngài đã giảng cho các vị tỷ kheo về tác hại của các chất làm say sẽ khiến cho những ai sử dụng chúng đều dẫn tới lối cư xử tệ hại, hạ nhân cách của chính mình cũng như nhân cách của người khác.

Nhân trường hợp này, đức Phật đã chế giới cấm uống tất cả các loại nước có chất say, dù có lên men hay không. Những chất dẫn tới say, dẫn tới uể oải tâm trí và mất tự chủ bản thân đều nằm trong diện ngăn cấm này. Người phật tử không nên kinh doanh những chất này cũng như mời người khác uống nước có chất làm say.

“Chớ sống theo nếp sống,

Uống rượu và say rượu,

Với vị là cư sĩ,

Đã chấp nhận pháp này,

Chớ khiến người uống rượu,

Chớ chấp thuận uống rượu,

Sau khi biết uống rượu,

Cuối cùng là điên cuồng”(2).

 

“Chỉ kẻ ngu say rượu,

Mới làm các điều ác,

Và khiến các người khác,

Sống buông lung phóng dật,

Hãy từ bỏ, tránh xa,

Xứ phi công đức này,

Khiến điên cuồng si mê,

Làm kẻ ngu thỏa thích”(3).

Trong một số kinh đã từng nói tới nhiều trường hợpđam mê rượu chè dẫn tới địa vị xã hội giảm sút(4). Có câu chuyện về một vị hoàng tử bị những người uống rượu lôi kéo, xúi giục để rồi trở thành kẻ nghiện rượu. Trong một dịp tham gia vào các hoạt động của hoàng gia, những người uống rượu đứng gần nơi hoàng tử đi qua hô to lên rằng: “Hoàng tử muôn năm, vì ơn Ngài, chúng tôi đã có thể tận hưởng cuộc sống tốt đẹp của mình”. Họ nói trong khi uống rượu, ăn thịt, ca múa hát v.v.. Sau khi nghe được điều này, hoàng tử hỏi thăm họ ăn uống gì mà vui vẻ thế. Người hầu trả lời là họ uống rượu, thứ nước mà đa số người trên thế gian này đều uống.

Sau khi trở về cung điện, hoàng tử tò mò muốn biết rượu là thứ nước gì nên sai người hầu đem đến. Ban đầu, hoàng tử nếm thử chút ít một cách kín đáo không cho ai biết. Sau đó, dần dần những người nghiện rượu bắt đầu tham gia cùng hoàng tử. Rất nhanh sau đó, họ đã uống một lượng rượu đáng giá hơn hai trăm đến ba trăm tiền vàng trong một lần. Để thêm phần hưng phấn, họ mời vũ công tới hát múa. Ngày qua ngày, hoàng tử tốn rất nhiều tiền để mua rượu. Đến lúc phải bán cả cung điện yêu thích của mình để có tiền mua rượu đãi bạn bè. Cuối cùng, vài năm sau đó, hoàng tử đã tiêu pha hết tài sản của mình, sức khoẻ giảm sút chỉ vì nghiện rượu, bị tống khứ ra đường phố, lang thang như kẻ không nhà.

 

Hay như câu chuyện kể về năm trăm người phụ nữ bạn hữu của nữ phật tử Visākhā, người thực hành giới không uống rượu. Một lần nọ, có một tửu hội được tổ chức tại thành Vasathi, năm trăm phụ nữ này sau khi uống rượu ca múa, đã đến nghe đức Phật thuyết pháp cùng với bà Visākhā. Vẫn còn ngà ngà say, họ đã quên rằng mình đang ở nơi công cộng, đang nghe thuyết pháp, nên họ bắt đầu múa hát. Những người khác trong số đó thì lại cãi vã gây ồn ào. Điều này nói lên rằng, ngay cả phụ nữ, khi đã say rượu, sẽ mất hết cảm giác của sự hổ thẹn, e ngại, cũng như sự tự chủ bản thân.

Dĩ nhiên, rượu có thể sử dụng như là thuốc để trị bệnh. Nhưng khi dùng để làm thuốc, nó nên được nấu chín với dầu để mất hết mùi, vị và cũng như màu của rượu(5). Khi sử dụng như là một thành phần của phương thuốc điều trị thì phải sử dụng đúng liều lượng được ghi trong toa thuốc để trung hòa hay làm vô hiệu các chất gây ra say.

Các tôn giáo thường nhắc nhở tín đồ của mình phải thận trọng khi sử dụng các loại thực phẩm ở các dạng như chất lỏng hay chất rắn, lên men hay không lên men, tự nhiên hay nhân tạo có thể gây ra sự ể oải về tinh thần cũng như mệt mỏi về thân thể. Bởi người say cũng như là một người ‘điên tạm thời’, mất khả năng kiểm soát tư tưởng, hành động và lời nói.

Trong kinh cũng nói rằng, khát nước sau khi tỉnh rượu cũng được xem là một hành vi xấu tương tự như nghiện sắc dục, đam mê cờ bạc, thói xuyên tạc người khác, lừa dối và bạo lực. Hơn nữa, trong số sáu nguyên nhân dẫn tới phá hoại sức khoẻ bản thân thì uống rượu hay các chất say dẫn đầu. Trong khi đó, người ham mê cờ bạc, sắc dục, người giao du với phường đâm thuê chém mướn, kẻ biếng nhác thì luôn thích tụ tập để uống rượu(6).

 

Theo quan điểm xã hội, chúng ta thấy có sự liên quan của việc uống rượu, bia hay sử dụng các chất ma túy với cờ bạc, ăn chơi trác táng, giao du với băng nhóm tội phạm hay nhóm người biếng nhác. Ngược lại, chính những việc bất thiện này dẫn con người đến với rượu, bia và ma túy. Đó là một vòng tròn luẩn quẩn không có lối thoát. Nhóm bạn xấu thường lôi kéo người khác tham gia vào những việc bất thiện. Mối quan hệ hữu cơ chặc chẽ của các nhân tố này rất quan trọng để chúng ta tìm hiểu các vấn đề xã hội.

Mối quan hệ trên sẽ rõ ràng hơn khi mỗi cái trong sáu món bất thiện ấy được mô tả chi tiết. Một khi bạn thường xuyên lui tới những nơi ăn chơi và bắt đầu lang thang trên đường phố vào những giờ khuya, thì dễ bị đám bạn xấu lôi kéo. Băng nhóm này sẽ xúi bạn uống rượu, chơi ma túy và cũng như tham gia vào các hành động tội ác khác. Sẽ không dừng lại ở đây mà những hành động như xuyên tạc, dối trá hay bạo lực ngày càng thêm lớn.

Khi chúng ta uống rượu hay các chất say, có sáu hậu quả tai hại xảy ra như sau: (1) Sức khoẻ giảm sút; (2) các cuộc cãi vã tăng lên; (3) nhiễm nhiều căn bệnh khác nhau; (4) tiếng xấu dần tăng; (5) cảm giác xấu hổ và tự trọng dần mất đi; và cuối cùng (5) trí tuệ giảm sút không thể phục hồi.

Trong chuyện Tiền thân Kumbha(7) có nói tới sự hình thành và phát triển của rượu như sau: Chuyện ghi rằng, một người thợ săn đã tình cờ phát hiện ra rượu. Trong khu rừng nơi anh ta đi qua có một cây mọc lên cao tầm vóc người và chia làm ba nhánh, giữa cái chĩa ba này có một cái hốc lớn. Khi trời mưa hốc này đầy nước. Chim ăn thóc lúa đã để rơi chúng vào cái lỗ này. Bên cạnh cây này có cây Myrobalan và một bụi tiêu, khi trái chín cũng rơi rớt vào lỗ nước này. Chỗ nước này lên men dưới ánh nắng mặt trời. Người thợ săn quan sát thấy sau khi uống thứ nước này, đàn chim bay loạng choạng rồi rơi xuống mặt đất. Ít phút sau, đàn chim tỉnh lại rồi bay tiếp. Quan sát vài lần như thế, gã biết nước này không có độc nên liền nếm thử, cảm giác có vị cay cay. Uống một lúc thì gã bắt đầu say. Trong lúc ngà ngà say, gã thèm thịt, bèn giết những con chim vừa ngã gục xuống đất vì say, nhóm lửa nướng thịt chim trên đóm lửa hồng, vừa múa hát vừa cầm thịt ăn.

Bấy giờ, không xa nơi ấy có một vị ẩn sĩ tu hành. Gã tới viếng thăm ẩn sĩ và dâng rượu thịt cho vị ẩn sĩ để cùng chung vui với mình. Sau khi cùng uống rượu và ăn thịt, họ nghĩ rằng dâng thứ nước này lên đức vua để được thưởng. Họ đi vào kinh thành, xin yết kiến nhà vua và dâng rượu. Nhà vua nếm thử vài ba lần thì say. Lại hỏi họ còn rượu nữa không, họ trả lời rất xa và khó để mang về đây. Họ yêu cầu đức vua cung cấp các thứ trái cây, lúa và hạt cần thiết để họ chế rượu. Họ làm rượu ngay tại kinh thành và bán cho dân chúng. Dân trong kinh thành uống rượu say trở thành những kẻ nghiện và lười biếng. Thế là vùng ấy biến thành một nơi hoang vắng vì ai cũng uống rượu, bỏ bê công việc. Họ bỏ nơi ấy đi đến kinh thành khác cũng để dâng rượu lên đức vua và cũng bán rượu cho dân chúng, khiến cho kinh thành này một lần nữa cũng trở nên hoang tàn. Lúc bấy giờ, đức Đế Thích Thiên Chủ nhìn xuống thế gian thấy nhà vua uống rượu, kinh thành hoang tàn liền xuất hiện trước mặt vua cảnh báo về nguy hại của rượu mang lại. Nhà vua nghe lời khuyên của đức Đế Thích Thiên Chủ liền phá hủy hết các thùng đựng rượu đồng thời xử tội chết đối với gã thợ săn cùng ẩn sĩ, những người gây ra hậu quả này.

Câu chuyện trên chứa đựng nhiều chi tiết quan trọng liên quan đến các chất làm say mà chúng ta phải để ý. Khám phá ra chất lỏng này là một sự tình cờ ngẫu nhiên. Gã thợ săn thấy đàn chim uống nước từ hốc cây đó, rồi bay trong trạng thái loạng choạng, mất phương hướng, rơi xuống gốc cây. Sau một thời gian ngắn, đàn chim tỉnh dậy rồi bay đi. Gã đã nghĩ, đàn chim uống nước đó không chết, có nghĩa là thứ nước đó không độc. Nghĩ như thế, gã liền nếm thử. Ngoài ra, gã còn chú ý đến các thành phần tạo ra thứ nước đặc biệt này. Vì thế, gã đã làm thứ nước này khi được nhà vua yêu cầu. Gã đã dâng cúng thứ nước này cho vị ẩn sĩ đang tu tập thiền định để nếm thử cái gọi là ‘chân lý’ mà gã vừa phát hiện. Vị ẩn sĩ uống thứ nước này, một cảm giác ‘lân lân’ mà ông ta chưa từng có xuất hiện khiến ông ta nghĩ rằng đó là ‘chân lý’ mà ông ta đang tu tập để chứng đắc. Hơn nữa, sự hiện diện của vị ẩn sĩ đi cùng gã thợ săn tới gặp nhà vua đã tăng thêm niềm tin cho đức vua. Ẩn sĩ hay nhà tu hành khổ hạnh thường được mọi người kính trọng và vì thế, khi họ cùng tới gặp nhà vua, đưa cho ngài thứ nước không rõ nguồn gốc, đức vua đã không ngần ngại nếm thử vì đã có vị ẩn sĩ ‘đáng kính’ chứng thực.

Nhà vua đã phê chuẩn để thứ nước này phổ biến trong dân chúng như là thêm một phương tiện giải trí, thư giãn. Một khi nhà vua đã công nhận thứ nước này và cho phép sản xuất với số lượng lớn như câu chuyện trên, thì không gì có thể ngừng sự tràn lan của nó trong đất nước. Chính quyền đó đã chấp nhận một chính sách bảo trợ cho rượu. Nhà vua đã trang trí thành phố, cho dựng những liều trại đặc biệt và mời tất cả quan viên đại thần cùng dân chúng trong thành phố mở tiệc đãi rượu.

Đức Đế Thích Thiên Chủ đã giải thích về sự nguy hại của rượu cho đức vua biết. Tác hại đầu tiên là ảnh hưởng đến thân thể như sẽ mất sự tự chủ thân thể, bước chân loạn choạng, té ngã; cảm giác xấu hổsợ hãi trong tâm trí biến mất.

Kế đến, người nghiện rượu sẽ nhiễm nhiều loại bệnh, chân tay run rẩy. Những chứng bệnh khác dễ dàng bộc phát trong thân thể. Tâm lý trở nên yếu ớt, thân thể mệt mỏi, phát sanh biếng nhác, quên mất địa vịvai trò của mình trong xã hội, cũng như bỏ bê gia đình.

Tiếp theo là những hậu quả đối với xã hội. Một người uống rượu, tìm đến rượu, lúc nào cũng vậy, sẽ thân cận với chúng bạn xấu. Một hớp, hai hớp rượu lúc ban đầu sẽ trở thành thói quen khó mà dứt bỏ được. Tiền của khó khăn để kiếm được cũng theo đó mà ra đi. Người nghiện rượu không có thời gian để lo việc kinh doanh hay kiếm sống của chính bản thân mình, bỏ bê việc quan tâm chăm sóc gia đình con cái. Vì nghiện rượu, thỉnh thoảng anh ta lại tham gia các hoạt động phạm pháp và bị tù đày.

Khi đã nghiện rượu, anh ta không thể tự chủ được bản thân, không giữ gìn lời ăn tiếng nói, cũng như hành động và suy nghĩ. Anh ta sẽ bị người đời xa lánh và ruồng bỏ.

Vì nghiện rượu nên dẫn tới thiếu sự tự chủ bản thân. Vì thiếu tự chủ bản thân nên dẫn tới sự tự kiêu, tự đại. Và một khi các tính xấu này đã phát sinh thì khó mà chấm dứt. Chính tính tự kiêu tự đại này sẽ khiến cho anh ta thất bại và sẽ kích thích gây gổ, công kích người khác.

Người đam mê rượu chè không chỉ phá hủy chính mình, gia đình mình mà còn liên lụy đến người khác, gia đình khác. Tiền của dành dụm trong một thời gian dài theo đó mà tiêu tan. Chính vì thế, mà việc đam mê rượu chè là một trong bốn nguyên nhân dẫn tới sự khốn cùng, nghèo đói.

Rượu, ma túy làm nhiễm độc tinh thần thậm chí chỉ uống một giọt. Khi tâm trí bị nhiễm độc vì rượu, thì cá nhân đó không thể giữ được thái độ điềm tĩnh, nghiêm trang. Đó là lý do rõ ràng rằng tại sao trong giới luật của tỷ kheo chủ trương ngăn cấm uống rượu cũng như các chất gây say khác.

Người phật tử cũng được yêu cầu giữ giới từ bỏ uống rượu. “Này các thiện nam tín nữ, những người đang thực hành giới pháp không nên tự mình uống rượu, không nên mời rượu người khác, cũng không nên hoan hỷ khi thấy người khác uống rượu vì rượu dẫn tới mất đứt hạt giống trí tuệ”(8).

Đối với rượu hay các chất say, đức Phật với cái nhìn tuệ giác của mình, Ngài cho rằng nhà nước hay chính quyền không nên ủng hộ việc sản xuất, cung ứng hay khuyến khích rượu trong bất kỳ trường hợp nào dù là trực tiếp hay gián tiếp. Sự hao phí tài sản xã hội đối với việc cho phép hay khuyến khích tiêu thụ rượu hay các chất làm say sẽ gấp nhiều lần so với thu nhập mà nó mang lại. Mặc dù trong thực tế, không thể nào kêu gọi mọi người tránh xa việc uống rượu hay từ bỏ uống rượu, nhưng chính sách nhất quán của nhà nước là không ủng hộ hay khuyến khích các sản phẩm rượu v.v.. Nhà lãnh đạo đất nước hay những người nắm quyền lực quốc gia phải là những người không đam mê rượu chè, chính họ sẽ là tấm gương để người dân noi theo. Dân chúng cần được giáo dục về tính nguy hại mà rượu, ma túy đem lại. Thậm chí, nếu một người đã uống rượu, nghiện rượu cũng phải có những phương pháp giúp anh ta cai rượu. Một thân thể cường tráng, một tinh thần khoẻ mạnh sẽ tạo ra một cuộc sống tươi đẹp. Rượu hay bất kỳ hình thức nào của rượu một khi đã uống, sẽ góp phần làm mai một tinh thần cũng như sức khoẻ và góp thêm một nhân tố sa đọa cho một xã hội lành mạnh.

 


1. Misra, G.S.P., The Age of the Vinaya, Delhi, 1972, 183-184; or KhA, 26; DA, 944
2. Sn, 398, theo bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu
3. Sn, 399, theo bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu
4. Cf. Vyagghapaja sutta
5. VIN I, 203; SBE XVII.55-57
6. Sigālovāda sutta, D III, 180-93
7. J. 512
8. S.III, 98-99

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3833)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5483)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10564)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6119)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9387)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6448)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 6008)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7518)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7345)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5227)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8132)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5944)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9667)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7426)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7468)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6267)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5330)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5887)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5687)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3977)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5726)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4108)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7558)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5739)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21974)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5662)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7119)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5059)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6469)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5843)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5030)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7077)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6067)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5594)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5914)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 6038)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6865)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6452)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6096)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6534)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6212)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6411)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5632)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6935)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4579)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7809)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6072)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7324)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7753)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5523)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5167)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5705)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5560)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5542)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5040)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4306)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6094)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5653)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6305)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant