Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Phật nói kinh Trang Nghiêm Vương Ðà La Ni chú

31 Tháng Năm 201100:00(Xem: 16223)
10. Phật nói kinh Trang Nghiêm Vương Ðà La Ni chú

BỘ MẬT TÔNG (Bốn Tập)
Dịch Giả: Tỳ Khưu Thích Viên Đức

D. TẬP BỐN
KINH MẠT PHÁP NHẤT TỰ ÐÀ LA NI

PHẬT NÓI KINH TRANG NGHIÊM VƯƠNG ÐÀ RA NI CHÚ
(MỘT QUYỂN)
Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nghĩa Tịnh phụng chiếu dịch Phạn ra Hán.
Sa Môn Thích Viên Ðức dịch thành Việt văn.

Như thật tôi nghe, một thời Ðức Bạt Già Phạm ở tại núi Bố Ðạt Lạt Ca. Vì các trời người tất cả đại chúng diễn nói pháp yếu, xem khắp mười phương dùng diệu âm thinh dạy Quán Tự Tại Bồ TátDiệu Cát Tường Bồ Tát rằng: Này thiện nam tử! Có kinh tên là “Nhứt Thiết Như Lai Sở Hộ Quán Sát Chúng Sanh Thị Hiện Phật Sát Trang Nghiêm Vương Ðà Ra Ni”. Ta lúc xưa kia khi mới phát tâm ở chỗ Hoa Quang Hiển Hiện Như Lai, cũng là chín mươi câu chi chúng sanh (90 trăm ức) một phen nghe được pháp mầu này đây thảy đều đắc phần trí huệ Như Lai, được nhờ thọ ký làm Phật trong các cõi Phật sát. Ta trong số đó được Phật thọ ký. Này thiện nam tử! Ta lấy Phật nhãn xem thấy quá khứ ba vạn Như Lai, vì các chúng sanh nói pháp yếu này. Ông Quán Tự TạiDiệu Cát Tường ở nơi trong thời thuyết pháp khi ấy cũng đều là bậc lãnh đạo Thượng Thủ.

Bấy giờ Thế Tôn nói lời ấy rồi, hiện tiền đại chúng Bồ Tát, Thanh Văn, thính giả đến nghe đều phát lòng tin cúng dưòng Ðức Phật.

Bấy giờ vô lượng trăm ngàn Câu chi na khố đa chúng sanh đều được thọ ký cũng đắc Bồ Tát Thắng Diệu Ðẳng Trì, bệnh khổ thảy trừ, Cái (1), Triền (2) tiêu diệt, sở nguyện đầy đủ, căn lành thành tựu, dung nhan đoan chánh tài bảo giàu có. Quốc Vương, đại thần, các loài chúng sanh thảy đều vui mừng! Niệm huệ thần thông đều được đầy đủ, đối Phật Pháp Tăng được tín bất hoại, thọ mạng sắc lực có đại oai thế, không có các khổ thương xa lìa ghét phải gặp gỡ.

Nếu có trai lành và người gái tín hay đối kinh này, năm vóc sát đất, sanh lòng hy hữu, lấy các hương hoa chuỗi ngọc phan cái, cung kính cúng dường, qui y khen ngợi đọc tụng thọ trì.

Nếu mình viết chép hoặc bảo người chép, vô lượng công đức đều được thành tựu, thấy kẻ thọ trì sanh lòng kính tín thì hiện thân này các đức đầy đủ, đều đắc Bồ Tát Thắng Diệu Ðẳng Trì, hơi miệng thường ra mùi thơm chiên đàn, tròng mắt sáng tịnh như lá sen xanh, ở trong ngày đêm thấy Phật hình tượngđại Bồ Tát. Nếu có chướng tội, nghiệp ngũ vô gián, thảy đều tiêu diệt, chư Thiên vệ hộ, khi mạng gần chung thấy Phật, Bồ Tát, tâm không tán loạn, quyết được vãng sanh về cõi Cực Lạc. Ta cùng người đó thọ ký làm Phật, kia thấy thân ta cung kính cúng dường, đối diện Bồ đề tâm không nghi hoặc. Nếu lại có người đối pháp môn này đọc tụng thọ trì, cúng dường cung kính, nếu tự mình chép hoặc bảo người viết cho đến được nghe tên kinh điển này, phải biết người đó tức là Bồ Tát nên cần cúng dường. Nếu lại người này do nghiệp ác trước, tài mạng sắc lực trong ngoài tư sanh thảy đều ngắn ít, các việc mong cầu không được toại lòng, thân ái chia lìa, cõi nước hoang tàn, vương giặc nạn suy. Do sức kinh này hiện thân thọ nhẹ, hoặc tạm đau đầu, hoặc được áo xấu, hoặc là cơm dở, hoặc gặp mắng chửi, và các hủy nhục thì nghiệp chướng kia thảy đều tiêu diệt. Này thiện nam tử! Kia người trì kinh nên sanh niệm này: Ta xưa lưu chuyển trong biển sanh tử, đối các hữu tình làm nhiều ác tội, ngày đêm tăng trưởng tạo nghiệp không lành, nay thời rõ biết, không dám che giấu, phát lộ nguồn tội, thành tâm sám hối. Ðối Phật Pháp Tăng lòng tin bất hoại.

Nếu lại có người từng ở trong Phật Pháp, Tăng Bảo, Ðộc Giác, Thanh Văn, cha mẹ, sư trưởng, làm các nghiệp ác, quả báo áo cơm đều phải thiết hụt. Do sức kinh này nghiệp ấy trừ diệt, cơm áo đầy đủ.

Nếu lại người kia, có nghiệp thọ khổ, chốn Nại Lạc Ca (địa ngục) thương khổ xa lìa, sống đời mù đui, không căn hai căn, nghiệp báo chín muồi, cũng đều tiêu diệt.

Lại nữa, người kia do sức nghiệp ác, đời trước tật đố, sân si hờn giận, sẽ đọa vào cõi Diêm Ma Vương giới, súc sanh ngạ quỷ trong các ác thú. Do sức kinh này đã có ác nghiệp đều được trừ diệt, hết thảy phước đức đều được tăng trưởng.

Này thiện nam tử! Nếu nơi chỗ nào có pháp môn này, thì những người kia thường nhờ kinh này mà được ủng hộ, công đức đầy đủ, sở cầu viên mãn, thường thọ giàu vui nghiệp ác tiêu trừ, không có hoạnh tử và các ác mộng, bịnh khổ chẳng có, đấu chiến thường thắng, mạng thọ sống lâu, sắc lực đầy đủ có đại oai thế. Tất cả thế gian người và thiên, long các quỷ thần thảy đều tùy ý chuyển, không gặp ác độc tai hoạn nước lửa, cho đến do nhờ sức trì Thần chú, thường được chư Phật trao tay thọ ký.

Nếu kẻ trai lành và người gái tín được nghe Thần chú như thế mà lại thọ trì đọc tụng hoặc tự viết chép hoặc dạy người chép, cung kính cúng dường, thì kẻ trai lành và người gái tín đều được công đức như trước đã nói.

Bấy giờ Thế Tôn nói lời ấy rồi quả đất lớn này bỗng nhiên rung chuyển sáu lần chấn động. Các đại chúng đây đem diệu hương hoa, hương thoa hoa tràng, tàn lọng, y phục, thù thắng nhiệm mầu dâng lên Thế Tôn, đồng thinh xướng rằng: Lành thay! Lành thay! Chúng con làm sao nghe được Thần chú, Như Lai tuyên nói. Lúc ấy Thế Tôn liền nói chú rằng:

“Nam Mô tát bà đát tha yết đa nẫm, đát điệt tha, bột đệ, tô bột đệ, lô ca Tỳ Lô kế, lô ca phạt để hiết lang đế, tát đỏa a phạt lô hiết nê, tát bà, đát tha yết đa a đề sắt sĩ đế, tát bà a xa bát rị bô rị nê, tu đinh đạt lệ, nại la đề bà bố thị đế, đát tha yết đa thận nhã na đạt đệ, đát tha yết đa a đề sắc trá nê noa, tát bà lô ca tốc xí bà bạt đổ, tát bà hiết ma bát rị xoa tà giả, ma ma a mộc hiết tả. Ngã đệ tử … (xưng tên) tát bà tát đỏa nan giả, hạt lạt xoa bà bạt đổ, đát tha kiết đa a đề sắc trá nê noa, tóa ha.” (108 lần)

Này thiện nam tử! Thần chú này đây ba vạn Như Lai đồng tuyên nói và cùng gia hộ. Ta nay cũng lại nói Thần chú này vì muốn lợi ích tất cả hữu tình khiến được an vui thường làm ủng hộ, trừ dứt bịnh khổ sanh các nước Phật.

Nếu lại có người nghĩ như thế này, như Phật đã nói công đức Thần chú. Ta nay làm sao để mà thành tựu, tức mỗi sáng chiều tắm rửa sạch sẽ, đối với hết thảy hữu tình chúng sanh khởi đại từ bi, phát lòng lân mẫn, trừ bỏ tật đố, kiêu mạn, giận hờn, một lòng cung kính đối trước tượng Phật, hương quý hoa thơm, đồ ăn thức uống rộng bày cúng dường, lễ mười phương Phật, tâm cầu sở nguyện, tụng Thần chú này đủ trăm lẻ tám biến (108) nơi mỗi mỗi biến, chú mỗi cái hoa, lấy mỗi mỗi hoa cúng dường nơi Phật. Người này tức liền tùy sở nguyện cầu thảy đều như ý, cũng ở trong mộng thấy được chư Phật. Khi mạng gần chung thấy Phật, Bồ Tát, sau khi bỏ thân quyết được vãng sanh Cực Lạc thế giới, thọ mạng sắc lực thảy đều đầy đủ. Tất cả oán cừu đều sanh hoan hỷ.

Khi nói chú này, sáu vạn hữu tình hết thảy đều được vô sanh pháp nhẫn, vĩnh trừ các chướng, sở nguyện đầy đủ.

Khi đức Thế Tôn nói kinh này rồi, Quán Tự Tại Bồ Tát, Diệu Cát Tường Bồ Tát, hết thảy đại chúng nghe Phật Ngài nói hoan hỷ phụng hành.

___________________________

(1) CÁI: Năm món Cái:

1. Tham dục: Lòng tham vô đáy.
2. Sân nhuế: Giận hờn.

3. Thùy miên: Tâm hôn trầm không làm chi được.

4. Trạo hối: Trong tâm có sự ăn năn xao động.

5. Nghi: Ðối với việc gì cũng mờ ám, không biện biệt được chơn ngụy, tâm dụ dự không quyết đoán.

(2) TRIỀN: Mười Triền:

1. Vô tàm: Có tội lỗi mà không biết hổ.
2. Vô quý: Có tội lỗi người khác biết được mà không thẹn.
3. Tật: Thấy người hiền đức, giàu sang sanh lòng ghen ghét.
4. Xan: Keo bẩn không bố thí.
5. Hối: Ăn năn những tội lỗi đã làm.
6. Thùy miên: Hôn mê không tỉnh giác được thân tâm.
7. Ðiệu cử: Tâm niệm xao động.
8. Hôn trầm: Thần thức hôn mê không rõ biết chi cả.
9. Sân hận: Ðối trước nghịch cảnh hay sinh lòng sân hận.
10. Phú: Che giấu tội ác.
KINH ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG KINH TRUNG 
VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BỔN NHẤT TỰ ÐÀ RA NI (QUYỂN 2)
Ðời Ðường, Bắc Ấn Ðộ nước Ca Thấp Di La
Ngài Tam Tạng Bảo Tư Duy dịch Phạn ra Hán.
Sa Môn Thích Viên Ðức dịch ra Việt văn.

Tôi nghe như vầy: Một thời Ðức Phật ở tại cõi Trời Tịnh Cư, nơi đạo tràng Ðại Bảo Trang Nghiêm, có các đại Bồ Tát cùng chư Thiên đại chúng đều đến nhóm hội.

Bấy giờ đức Thế Tôn mở lòng đại từ đại bi, ở trong hội ấy nói khắp tất cả chư Thiên, đại chúng rằng: 

- Các ngươi lắng nghe! Ngài Văn Thù Sư Lợi đồng tửPháp luân chú, vì muốn cứu độ cho chúng sanh, hết thảy Như Lai đều có tâm bí mật khai thị hiển thuyết. Nếu có người trì tụng ta sẽ thọ ký cho người ấy, lúc trì tất cả các chú khác mới mau hiệu nghiệm viên mãn, tất cả việc làm đều được thành tựu không gì hơn. Các ngươi phải biết Ðà Ra Ni này là Ðại Thần chú Vương, trong các chú có đại thần lực.

- Nếu có người Thiện nam, Tín nữ nào hay thọ trì, thì Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử Bồ Tát sẽ đến ủng hộ, hoặc lúc tỉnh giấc, hoặc ở trong mộng, Ngài hiện thân tướng và hết thảy các điềm lành, có công năng khiến cho chúng sanh đều vui mừng.

 Các Thiện nam tử! Chú Vương này còn thu nhiếp được Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử Bồ Tát, huống nữa các Bồ Tát khác, ở thế gianxuất thế gian, cùng tất cả Hiền Thánh v.v…

Lại nữa, Thiện nam tử! Thần chú này có các công năng tiêu trừ tất cả tai chướng, tất cả mộng ác, tất cả oán địch, tất cả tội ngũ nghịch, tội tứ trọng, thập ác và các nghiệp tội nặng, tất cả tà ác, các chú pháp không lành và có công năng diệt trừ hay thành biện tất cả việc lành, được đại tinh tấn. Nên biết các chú tại thế và xuất thế thì chú này thù thắng hơn hết, là tâm của chư Phật, hay khiến tất cả sở nguyện đều được viên mãn.

Nếu có chỉ năm màu, kết Thần chú này thành dây, đeo nơi cổ sẽ ủng hộ được thân mình, diệt trừ tai chướng, khiến các nguyện đều được viên mãn, không gì sánh bằng, liền nói Thần chú rằng:

“ÚM XỈ LÂM”

Này các Phật tử! Chú này có công năng tiêu diệt tất cả tà ác, vọng lượng và các loài quỷ. Là Pháp kiết tường (an lành) của hết thảy chư Phật, có công năng thành tựu tất cả Thần chú. Người tụng chú này hay khiến cho chúng sanh phát lòng đại từ, hay khiến cho chúng sanh phát lòng đại bi, hết thảy chướng ngại đều được tiêu diệt, chỗ mong cầu ước nguyện đều được đầy đủ, dù khi chưa làm phép tắc cũng được tự ý thành biện các việc. Nếu phát lòng Vô thượng đại Bồ đề, tụng chú này một biến có năng lực gia hộ tự thân, nếu tụng hai biến có năng lực gia hộ đồng bạn, nếu tụng ba biến có năng lực gia hộ mọi người trong nhà, nếu tụng bốn biến có năng lực gia hộ mọi người trong một thành, nếu tụng năm biến có năng lực gia hộ mọi người trong gia hộ mọi người trong một nước, nếu tụng sáu biến có năng lực gia hộ mọi người trong một thiên hạ, nếu tụng bảy biến có năng lực gia hộ mọi người trong bốn thiên hạ. Nếu mỗi sáng tụng chú này một biến trong nước rửa mặt thì hay khiến người thấy sanh lòng vui mừng, chú nơi hương thơm, thoa nơi áo mặc cũng khiến mọi người thấy đều sanh lòng vui mừng.

- Nếu bị đau răng, chú trong cây Lan mà nhâm nhai đó, thì răng đau liền bớt.

- Nếu có người nữ bị sản nạn (nạn sanh đẻ) lấy rễ cây A Tra Lô Sa Ca hoặc rễ cây Lan Già Lợi Ca (cây Ngưu Tất) chú vào đó bảy biến, lượt trùng lấy nước sạch, hòa vào trong rễ cây ấy, thoa nơi sản nữ hay nơi rún, ấu nhi liền sinh ra dễ dàng.

- Hoặc có người nam bị trúng tên, đầu sắt nhọn của mũi tên đâm vào gân xương, nhổ ra không được, lấy bơ mười năm, ba lượng, tụng chú 108 biến, thoa nơi chỗ bị tên độc và ăn bơ đó, mũi tên có sắt độc kia liền ra.

- Nếu người đàn bà năm năm cho đến hai mươi năm, ba mươi năm mà chẳng có con trai hay con gái, hoặc tự có bịnh, hoặc chồng của người đàn bà ấy bị bịnh quỷ mị hay các thứ bịnh khác, hoặc bị nhằm thuốc độc, lấy bơ để lâu trên mười năm, năm lượng, lấy lông của đuôi con công, một lượng, bỏ vào trong bơ ấy, tụng chú 21 biến, đem nghiền thật nhỏ, rồi bỏ vào chưng nấu chín, lấy một lượng đường phèn và ba trái A Lê Lặc lớn, bỏ hột lấy vỏ, hòa chung với nhau lại tụng chú 108 biến, thường mỗi buổi sáng bụng đói uống thuốc ấy vào, uống bảy ngày như vậy, liền có con trai hay con gái.

- Nếu đau đầu, lấy lông cánh của con chim, tụng chú này bảy biến, phết chỗ đau nơi ấy tức bịnh liền lành.

- Nếu bị bịnh rét, một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, hoặc bị rét kinh niên, lấy thuần sữa tốt, nấu chung với cháo, trộn vào một lượng bơ, tụng chú 108 biến cho người bị bịnh ăn, tức bịnh liền dứt.

Này các Thiên nam tử! Ðây chỉ tóm lược mà nói, nếu muốn bào chế các thứ thuốc để uống thì trước cần phải chí tâm tụng chú 21 biến, sẽ mau được như nguyện.

Lại nữa! Các Thiện nam tử! Nếu có tất cả chúng sanh, bị quỉ Phi đầu bắt giữ thì mình lấy tay thoa nơi mặt họ, tụng chú 108 biến, mình làm tướng oai nộ, liền lấy tay trái kiết ấn Bổn sanh (ngón tay cái co vào trong lòng bàn tay, sau dùng bốn ngón kia nắm chặt ngón cái lại thành một hình cầm cú) liền tự hét nộ mắt chăm nhìn và tụng chú mà xem bịnh thì bịnh liền lành.

- Nếu người bị các loài quỉ hành bịnh, mình tụng chú vào trong tay phải 108 biến, thiêu An tất hương xông nơi tay, tay trái kiết ấn Bổn sanh (ấn như trên) tay phải thoa nơi đầu của người bị quỉ hành bịnh, bịnh liền dứt.

- Nếu có oán địch cùng các ác mộng và các việc sợ hãi, làm thân tâm bất an, lấy chỉ bảy màu hay năm màu, kết Thần chú này thành dây hoặc thành hình hoa sen, hoặc thành hình bánh xe Pháp luân, hoặc thành hình Kim Cang xử, tụng chú 108 biến, thiêu An tất hương, xông dây đó cho đến bảy ngày, đeo vào nơi cổ, tất cả tai chướng đều được tiêu tán. Hoặc lấy ngưu huỳnh nghiền nhỏ làm mực, viết trên giấy sạch, hoặc là lụa trắng, vẽ hình đáng sợ nơi bốn bên, hãy viết chữ “ÚM XỈ LÂM” chung quanh, hoặc vẽ hình hoa sen, hoặc hình bánh xe Pháp luân, hoặc chữ vạn, hình ngư ốc, hình Kim Cang móc câu, bình Cam lồ báu, vẽ chung quanh ấy, tụng chú bảy biến thì chỗ sợ hãi liền tiêu trừ.

- Này các Thiện nam tử! Nếu muốn đi qua các chỗ hiểm nạn sư tử, hổ lang, độc xà, oán tặc tất cả chỗ nạn ấy, nên cần dốc hết thân tâm cho thanh tịnh, không được gần gũi người nữ, không được ăn ngũ tân (rượu, thịt, hành, hẹ, nén, tỏi …) đối với chúng sanh, phát tâm đại từ bi, nhất tâm tụng chú 49 biến thì các oán ác tự nhiên thối tán, dầu có gặp đi nữa cũng đều sanh tâm vui mừng.

Này các Thiện nam tử! Thần chú này đối với tất cả chúng sanh, hoặc ở một kiếp, hoặc vô lượng kiếp, cho đến danh tự không thể nghe được, huống nữa chuyên tâm tụng niệm, giả sử của bảy báu như: voi, ngựa đầy dẫy cõi Diêm Phù Ðề này, cũng là pháp hoại diệt của thế gian.

Ðà Ra Ni Thần chú này, khiến chúng sanh hiện tại và tương lai, thường được an ổn, hay làm quyến thuộc với các Như Lai và các chúng đại Bồ Tát. Nếu vì bản thân mình hay bản thân người khác thì các sở nguyện cũng đều được như ý. Vậy cho nên phải ân cần khao khát, rất khó gặp, không được khinh mạn, hoặc sanh tâm nghi ngờ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6334)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8578)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5293)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5857)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7498)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6408)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5997)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4788)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5736)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5911)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6157)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6641)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5970)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7089)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6693)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4830)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4964)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7749)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9853)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7565)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5355)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6457)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5460)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5873)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6435)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5716)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6460)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7086)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6307)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10690)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6699)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6208)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6761)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6155)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6526)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5538)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8275)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5755)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7584)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6269)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9676)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4080)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6404)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4195)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4348)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4811)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5375)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5332)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5862)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6825)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5594)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4542)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5348)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 5039)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4400)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6906)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4655)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8452)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7248)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8405)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant