Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

IV. Cái Chết Của Sự Sống Tự Tại

02 Tháng Chín 201100:00(Xem: 9327)
IV. Cái Chết Của Sự Sống Tự Tại

THỰC TẠI VÀ CHÍ ĐẠO
Phổ Nguyệt, Ph.D.

PHẦN HAI
GIẢI THOÁT TRI KIẾN

CHƯƠNG BA
CHÍ ĐẠO

IV. CÁI CHẾT CỦA SỰ SỐNG TỰ TẠI

1).- Hành Trì Cho Người Sắp Chết : (Tạng Thư Sống Chết)
Toàn thể thái độ của đạo Phật đối với lúc chết có thể tóm tắt trong đoạn thơ sau của Padmasambhava trong Tử Thư Tây Tạng
Khi Trung Ấm chết xuất hiện
Tôi sẽ từ bỏ mọi chấp thủ, khát khao, lưu luyến 
Thể nhập không tán loạn vào minh sát giáo lý
Và chiếu tâm tôi vào trong không gian của tự tánh vô 
sanh
Khi xả cái thân do máu thịt tập hợp này
Tôi sẽ biết nó chỉ là phù du mộng huyễn.
Đức Dalai Lama giải thích:
=Vào lúc chết, những thái độ ta đã quen thói từ lâu thường thắng lướt để hướng dẫn tái sanh. Cũng vì lý do nầy, sự chấp thủ mãnh liệt đối với tự ngã được phát sinh, vì người ta sợ tự ngã mình đang biến mất, Sự chấp thủ nầy là dây nối ở khoảng giữa hai đời sống. Ước muốn có một thân xác mới là cái nhân để tạo ra thân Trung Ấm.
Có ba pháp hành trì cho sự chết:
a) Tốt nhất là an trú trong tự tánh tâm, hay gợi lên tâm yếu của sự tu tập.
b) Kế tiếp pháp chuyển di tâm thức;
c) Cuối cùng, dựa vào năng lực của cầu nguyện, sùng kính, nguyện lựcân sủng của các bậc giác ngộ;

Những hành giả thượng tặng về Dzogchen đã hoàn toàn trực nhận tự tính tâm trong suốt đời họ, nên khi chết, họ chỉ cần tiếp tục an trú trong trạng thái Rigpa, khi làm cuộc chuyển tiếp qua sự chết. Họ không cần chuyển di tâm thức vào một vị Phật nào, hay cõi Phật nào, vì họ đã thực chứng tâm giác ngộ của chư Phật ngay trong chính họ. Cái chết đối với họ là giải thoát tối hậu--cao điểm của sự chứng đắc, tột đỉnh của một đời tu tập. Tử Thư Tây Tạng chỉ có vài lời nầy để nhắc nhở một hành giả như vậy :
-Bạch Ngài, bây giờ Ánh Sáng căn bản đã lố dạng. Hãy nhận ra, và an trú trong sự tu tập.

Người ta nói những người đã hoàn tất pháp tu Dzogchen thì chết như một hài nhi mới sanh, không một chút lo âu quan tâm về sự chết. Họ không cần quan tâm về chuyện họ chết lúc nào ở đâu, họ cũng không cần gì đến những lời dạy, chỉ dẫn, hay nhắc nhở.

Những hành giả trung bình hạng nhất thì chết như hành khất trên đường. Không ai để ý đến họ, không gì có thể quấy rầy họ. Vì họ đã tu tập vững vàng, nên tuyệt đối không bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh xung quanh. Họ có thể chết dễ dàng trong một bệnh viện bận rộn, hay ở nhà giữa một gia đình đang tranh chấp rộn ràng. (tr.309,10,317)

 2). Tự Tại Khi Chết (Tự Gia Bảo)

Người tu thiền cốt yếu được sanh tử tự tại, khi còn sống cũng như khi chết mình hoàn toàn làm chủ. Muốn làm chủ khi chết, chính lúc còn sống mình phải làm chủ cả thể xác lẫn tâm hồn. Như Thiền sư Đạo Giai nói: Muốn biết khi chết được tự tại không tự tại, chỉ xem hiện tại tự do chẳng tự do.

Tự do đây có nghĩa là mình làm chủ mình hoàn toàn, không phải tự do đối với xã hội. Đối với danh vọng tài sắc... không quấy nhiễu được ta, đối với khổ vui sống chết... không phiền lụy đến ta, ta sống trong cuộc đời phồn tạp, mà vẫn không vướng bận, như cây bá hiên ngang đứng sừng sựng giữa trời.Trong khi sống tự tại như vậy đến lúc chết làm gì chẳng tự do. Tại sao được như vậy? Bởi vì chúng ta đã thấy rõ cái không sanh tử trong cái sanh tử, cái chơn thật nằm trong cái giả dối. Các Thiền sư vì sống với cái chơn thật nên không màng đến cái giả dối, sống với cái không sanh tử nên làm chủ được cái sanh tử. Chúng ta hãy xem cái chết của vài Thiền sư sau:

--Trước khi sắp tịch, Thiền sư Đặng Ẩn Phong hỏi chúng Tôi thường thấy các vị tiền bối khi tịch hoặc ngồi hoặc nằm, có vị nào đứng tịch chăng? Chúng thưa: Có. Sư hỏi: Có vị nào đứng lộn ngược mà tịch chăng? Chúng thưa: Chưa từng thấy. Sư bèn lộn ngược mà tịch, nhưng y phục vẫn nguyên vẹn như đứng... (Đặng Ẩn Phongđệ tử của Mã Tổ).

--Vua Đường Mục Tông sai Lưỡng Nhai Tăng Lục là Linh Phụ...đến thỉnh Thiền sư Vô Nghiệp về triều. Linh Phụ đến làm lễ thưa : Hoàng Thượng ân chỉ phen nầy chẳng giống lúc thường, xin Hoà Thượng thuận thiên tâm, không nên nói bịnh. Sư cười chúm chím nói: Bần đạo có đức gì làm phiền thế chủ. Mời Ngài đi trước tôi sẽ đi đường riêng. Sư bèn tắm gội, đến giữa đêm bảo đệ tử Huệ Âm v.v...: Các ngươi! Tánhthấy nghe hiểu biết cùng hư không đồng tuổi, chẳng sanh chẳng diệt, tất cả cảnh giới vốn tự không lặng, không một pháp có thật, người mê không hiểu bị cảnh làm lẫn, trôi lăn khôn cùng... Nói xong Sư ngồi yên thị tịch.(cũng đệ tử Mã Tổ)

--Ông Bàng Long Uẩn sắp tịch, bảo con gái là Linh Chiếu ra xem mặt trời đúng ngọ vô cho ông hay. Linh Chiếu ra xem, vào thưa : Mặt trời đã đúng ngọ mà có nguyệt thực. Ông ra cửa xem. Linh Chiếu lên tòa của ông ngồi kiết già chấp tay thị tịch. Ông vào xem thấy cười và nói: Con gái ta lanh lợi quá. Ông bèn chậm lại bảy ngày sau. Đến ngày thứ bảy, Châu Mục Vu Công đến thăm, ông bảo: Chỉ mong các cái đều không, để đặt các cái không đều thật, khéo ở thế gian đều như bóng vang. Nói xong, ông nằm gối đầu trên gối Vu Công mà tịch (cũng đệ tử Mã Tổ).

--Thiền sư Lương giới Động Sơn cạo tóc tắm gội xong, đắp y bảo chúng đánh chuông, giã từ chúng mà tịch. Đại chúng khóc lóc mãi không dứt. Sư mở mắt bảo: Người xuất gia tâm chẳng dính mắt nơi vật là tu hành chân chánh. Sống nhọc thích chết, thương xótích lợi gì? Sư bảo chủ sự sắm trai ngu si để cúng dường. Chúng vẫn quyến luyến quá, kéo dài đến ngày thứ bảy. Khi thọ trai, Sư cũng theo chúng thọ. Thọ trai xong, Sư bảo chúng: Tăng già vô sự, sắp đến giờ ra đi, chớ làm ồn náo. Sư vào trượng thất ngồi yên tịch (Sư đệ tử Vân Nham).

--Chỉ Y Đạo Giả đến tham vấn Tào Sơn Bổ Tịch. Tào Sơn hỏi : Đâu chẳng phải Chỉ Y Đạo Giả ư? Đạo Giả thưa: Chả dám. Tào Sơn hỏi: Thế nào là việc của Chỉ Y? Đạo Giả thưa: Chiếc áo cừu vừa khoát ngoài thân, muôn pháp thảy đều như. Tào Sơn hỏi :Thế nào là dụng của Chỉ Y? Đạo Giả lại gần: Dạ! liền đứng tịch. Tào Sơn bảo: Ngươi chỉ giỏi đi thế ấy, sao chẳng giỏi đến thế ấy. Đạo Giả mở mắt hỏi: Một chơn tánh linh khi chẳng nương bào thai thì thế nào? Tào Sơn bảo: Chưa phải diệu. Đạo Giả hỏi: Thế nào là diệu? Tào Sơn bảo: Chẳng mượn! mượn! Đạo Giả trân trọng liền tịch (Đệ tử Động Sơn).

--Một hôm Phổ Hóa ở trong chợ đến một người xin chiếc áo dài, mọi ngườI đều cho, Phổ Hóa đều chẳng nhận. Lâm Tế dạy Viện Chủ mua chiếc quan tài. Phổ Hóa về đến, Lâm Tế bảo: Tôi đã vì ông sắm chiếc áo dài rồi. Phổ Hóa liền tự vác đi. Phổ Hóa đi quanh phố chợ rao: Lâm Tế cho tôi chiếc áo dài rồi, tôi sang cửa Đông tịch. Người trong chợ đua nhau đến xem. Phổ Hóa bảo: Tôi ngày nay chưa tịch, ngày mai sang cửa Nam mới tịch. Như thế đến ba ngày mọi người đều chẳng tin. Đến ngày thứ tư không ai theo xem, một mình Phổ Hóa tự chung vô quan tài, nhờ người đi đường đậy nắp lại. Tin truyền đi mọi người trong chợ đua nhau đến dở quan tài xem, không thấy thi hài Phổ Hóa đâu, chỉ nghe trong hư không tiếng mỏ xa dần, xa dần rồi mất (Đệ tử Bàn Sơn).

--Thiền sư Thiện Chiêu bị Y Lý Hầu ba phen thỉnh trụ trì chùa Thừa Thiên mà Sư không đi. Sứ giả bị phạt. Y Lý Hầu lại sai sứ đi phen nữa. Sứ giả đến thưa: Quyết thỉnh thầy đồng đi, nếu thầy không đi tôi liền chết mà thôi. Sư cười bảo : Bởi nghiệp già bịnh không thể xuống núi, giả sử đi có trước sau, tại sao quyết đồng? Sứ giả thưa: Thầy chịu đi thì trước sau tùy lựa chọn. Bảo chúng sữa soạn xong, Sư gọi chúng lại nói : Lão tăng đi có người nào theo được? Có vị tăng thưa : Con theo được. Sư hỏi: một ngày ngươi đi được bao nhiêu dặm. Tăng thưa: Năm mươi dặm. Sư bảo: Ngươi theo ta chẳng được. Lại có vị ra thưa : Con theo được. Sư hỏi: một ngày ngươi đi được bao nhiêu dặm? Tăng thưa: Bảy mươi dặm. Sư bảo, ngươi theo ta cũng chẳng được. Thị giả ra thưa, con theo được, Hòa Thượng đến đâu con đến đó. Sư bảo, ngươi theo lão tăng được. Nói xong, Sư bảo thị giả, ta đi trước nghe! Sư dừng lại rồi tịch. Thị giả đứng khoanh tay tịch theo. (Sư đệ tử Thiền sư Tĩnh Niệm dòng Lâm Tế)

Tạm dẫn bấy nhiêu đó cũng khá rườm rà rồi. Tuy nhiên đối với các Thiền sư có những cái kỳ đặc. Song đây chẳng phải quan trọng, vì là diệu dụng. Cái quan trọng nhất trong nhà thiền là sống được tánh giác của mình, nó mới là bản thể. Bản thể là cái gốc, diệu dụng là cái ngọn. chỉ lo không bám được gốc, đừng sợ mất ngọn. Khi sống được với thể giác rồi thì mỗi hành động nào cũng là thần thông diệu dụng cả. Ông Bàng Long Uẩn với kệ:

Dịch
Nhật dụng vô biệt sự: Hàng ngày không việc khác
Duy ngộ tự ngẫu hài: Chỉ tôi tự biết hay
Đầu đầu phi thủ xả: Vật vật chẳng lấy bỏ
Xứ xứ vật trương oai: Chỗ chỗ nào trái bày
Châu tử thùy vi hiệu: Đỏ tía gì làm hiệu
Khưu sơn tuyệt điểm ai: Núi gò bặt trần ai
Thần thông tịnh diệu dụng: Thần thôngcùng diệu dụng
Vận thủy cập ban sài: Gánh nước bửa củi tài

Thần thông ở đây là gánh nước bửa củi,vì mọi hành động ấy đều từ thể giác phát xuất. Chúng ta lại nghe một bà già trình thần thông.

Thiền sư Nam Tuyền, Quý Tông, Ma Cốc đi hành cước đến một cái quán của bà lão. Quý vị kêu bà đem trà, bà bảo: Quý thầy trình thần thông rồi sẽ uống trà. 

Quý vị đưa mắt nhìn nha. Bà bảo: Quý thầy xem già nầy trình thần thông. Bà liền tay cầm bình trà, tay bưng chung trà, nghiên rót vào chung để xuống. Quả là thần thông trong hành động, đừng nghĩ thăng thiên độn thổ mới là thần thông. Bởi bất cứ một tác động nào lưu xuất từ bản thể đều là diệu dụng, khổ nỗi người ta hiện giờ chỉ trọng thần thông diệu dụng mà quên bản thể. Vì thế nên dễ lạc vào đường tà, chính quỉ thần vẫn được ngũ thông, làm sao giản trạch được đâu tà đâu chánh. Chỉ một bề trở về tánh giác là muôn đời không lầm.

Tóm lại diệu dụng của người tu thiền tông là nhận ra tánh giác của chính mình, tánh giác nầy không sanh không diệt không tướng mạo mà hằng giác. Bởi hằng giác nên chẳng phải không, không tướng mạo nên chẳngphải có. Sống được với tánh giác là thoát ly sanh tử, tuổi thọ tánh giác đồng với hư không. Cho nên trong kinh nói tuổi thọ của Phật không biết bao nhiêu tính kể. Đạt được tuổi thọ vô lượng vô biên ấy, còn gì hạnh phúc bằng, còn gì quí bằng. Sống vớicái vĩnh cữu chẳng sanh chẳngdiệt nầy, mới thực là đến chỗ chân thật tuyệt đối. Còn có gì ở thế gian có thể so sánh với tánh giác. Tánh giác nầy mới thực ta (Chơn Ngã), tánh giác không bao giờ mất (Chơn thường), tánh giác là chơn thực hạnh phúc (Chơn lạc), tánh giác không có gì ô nhiễm được (Chơn tịnh). Sống đến chỗ chơn ngã, chơn thường, chơn lạc, chơn tịnh nầy, mới là điểm cứu cánh của thiền tông.

Trong khi trở về cái chơn thật thì mọi cái giả dối giảm thiểu khả năng lôi cuốn chúng ta. Từ từ ta làm chủ lại chúng ta,điều khiển chúng theo chỗ muốn của chúng ta

Mọi khổ đau buồn thảm tự suy thoái, không còn là điều quan trọng đối với chúng ta nữa. Với cái thân giả tạm, cái vọng tưởng hư ảo sắc trần không hoa nầy, còn nghị lựctrói buộc chúng ta được. Bởi thấy được ông chủ thật sự của mình, mọi khách trần là trò đùa, nên Thiền sư tự tại ra đi (tr.339-344).

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7159)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
(Xem: 6951)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
(Xem: 9681)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
(Xem: 23210)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
(Xem: 8162)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20617)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19598)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18485)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16322)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15982)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19161)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14390)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9686)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8783)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8244)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8951)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 11035)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9177)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8950)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 8005)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9137)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35705)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8605)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15167)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8742)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15353)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9212)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8882)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9404)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8517)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10353)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7709)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9596)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7561)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17295)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15089)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9555)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20937)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9253)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7204)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17773)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17704)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25894)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7861)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9954)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7303)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9691)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8174)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9141)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7449)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8826)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7956)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8391)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7571)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8772)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8200)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8927)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7331)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 14055)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7157)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant