Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

02. Bốn Ðế

09 Tháng Mười 201100:00(Xem: 12486)
02. Bốn Ðế

CÁC BÀI
HỌC PHẬT
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông

Phần 2: GIÁO LÝ CĂN BẢN

Bốn Ðế

I. - Dẫn: Bốn đế, Bốn thánh đế hay Tứ diệu đế là một bài Pháp đầu tiên, đức Phật đã giảng dạy cho nhóm Kiều Trần Như, những người cùng tu khổ hạnh với Phật trong nhiều năm trước, bài nầy đánh dấu đức Phật đã chuyển bánh xe Pháp, tức là Ngài đem chân lý ra để giảng dạy cho mọi người, ngõ hầu nhận thức được cuộc đời là khổ, cần phải tu tập để gỉai thoát vĩnh viễn mọi nỗi khổ của con người.

II. - Bốn đế: Thái tử Tất Ðạt Ða sau khi ra bốn cửa Ðông, Tây, Nam, Bắc của thành Ca Tỳ La Vệ, người đã nhận thức được sanh, lão, bệnh, tử đều là khổ, con người không thể tránh được do lòng thương chúng sanh, Ngài quyết từ bỏ cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con ngoan chí quyết đi tìm phương thức giải thoát sanh, lão, bệnh, tử đó. Khi đã chứng ngộ được chân lý, Ngài mới chỉ cho người ta thấy cái khổ, chỉ những nhân tố gây ra khổ, cho biết diệt được khổ thì sẽ được quả vị an vui và Ngài chỉ cho con đường tu tập để giải thoát khỏi khổ, tóm lại Bốn đế là: Khổ đế, Tập đế, Ðạo đế và Ðạo đế.

1) Khổ đế: Có người sẽ nghĩ rằng cuộc đời có chi là khổ? Có người tự nhận thấy mình chẳng có gì khổ cả, nhưng chúng ta thử nhìn xung quanh, có biết bao nhiêu là cảnh khổ, người nghèo có cái khổ của người nghèo, nguuời giàu có nỗi khổ của người giàu. Có thể chia khổ làm 2 loại : Ba khổ hay Tám khổ.

1) Ba khổ:

a) Khổ khổ: Sanh ra đời làm thân người đã là khổ rồi, lại có những nỗi đắng cay cuộc đời làm cho chúng ta khổ thêm.

b) Hành khổ: Những biến dịch thời tiết ấm lạnh, đói rét cơ hàn, chiến tranh, thiên tai, bảo lụt đều làm cho con người phải chịu khổ.

c) Hoại khổ: Những sự hư hoại, cũng làm cho con người phải khổ, chẳng hạn thân ta vì sự hư hoại làm cho con người đau yếu, bệnh tật, đều là khổ, có những thứ chúng ta quý mà vì sự huỷ hoại của nó làm cho chúng ta luôn luôn khổ.

2) Tám khổ:

a) Sanh: Trong đời ai cũng có nỗi khổ, cho nên nói sanh là khổ.

b) Lão: Già sức khoẻ yếu kém, hay bệnh tật, tai lảng, mắt kém, những thứ đó luôn làm cho người già cảm thấy khổ đau.

c) Bệnh: Mọi bệnh tật đều làm cho người bệnh phải chịu khổ đau.

d) Tử: Làm người ai cũng ham sống sợ chết, chết phải bỏ sự nghiệp còn dang dở, bỏ người thân yêu, bỏ của cải cho nên chết là nỗi khổ lớn nhất cho con người.

e) Cầu bất đắc khổ: Những gì mình mong cầu như muốn có một căn nhà đẹp, một chiếc xe đẹp... mà không được, có những người muốn phụng dưỡng cha mẹ mà không được, dạy dỗ con cái nên người mà không được, đều lao tâm, khổ trí.

g) Ái biệt ly khổ: Những cuộc chia ly với người thân như cuộc chia ly xa xứ cũng đã khổ, lại còn nổi khổ nào hơn, nếu người thân của mình mất, đau khổ này người ta diễn tả ruột đứt từng cơn.

h) Ngũ ấm xí thạnh khổ: Năm ấmSắc ấm, Thọ ấm, Tưởng ấm, Hành ấmThức ấm là những thứ làm cho con người chúng ta bị khổ.

i) Oán tắng hội khổ: Những thứ chúng ta ghét mà gặp phải đã là khó chịu, con người với nhau mà đã ghét bỏ nhưng lại ở gần nhau, thường gặp nhau đều là những hoàn cảnh gây đau khổ cho chúng ta.

2) Tập đế: Khổ hiện tại của mỗi người đều do nguyên nhân từ những kiếp trước tạo thành, nó cột chặt và khiến ta phải gánh chịu những quả báo, phiền não tuy có nhiều nhưng chia thành mười thứ:

1) Những phiền não có tánh chất nặng nề:

a) Tham: Ham muốn gây ra việc bất chánh.
b) Sân: Giận dữ, nóng nãy thường hay làm bậy.
c) Si: mê muội, sai lầm nông nỗi.
d) Mạn: Cống cao ngã mạn, cho mình hay giỏi hơn người, từ đó làm những việc sai lầm.
g) Nghi: Nghi kỵ gây ra hiềm thù, hồ nghi nên khó có chánh tín.

2) Những nhận thức sai lầm:

a) Thân Kiến: Chấp thân này có thật.
c) Biên kiến: Chấp có một bên, không đúng sự thật.
c) Tà kiến: Thấy biết theo đường tà, không đúng chánh lý.
d) Kiến thủ: Cố giữ cái thấy, biết sai lầm của mình, không nhận ra chánh lý.
e) Giới cấm thủ: Tin tưởngthực hành theo những giới điều sai lầm.

3) Diệt đế: Ðức Phật chỉ cho thấy rằng chúng sinh cần phải diệt khổ, khi đã diệt khổ tức là tâm luôn luôn an trú trong tịch tĩnh, thường còn, giải thoát khỏi sanh tử luân hồi gọi là Niết Bàn. Cho nên Niết Bàn có 3 đặc tính: 1) Không còn sanh lại. 2) Tâm thanh tịnh vắng lặng. 3) Giải thoát mọi mê lầm, phiền não.

Quả vị Niết Bàn có khác, những người chứng ngộ được Bốn đế nầy, thuộc hàng Thanh Văn, có 4 quả vị thánh chứng:

a) Tu Ðà Hoàn: Người Tàu dịch là Dự Lưu có nghĩa là dự vào hàng thánh quả hay Nghịch Lưu có nghĩa là đi ngược với những người không tu; những vị này đã hiểu rõ Bốn đế.

b) Tư Ðà Hàm: Người Tàu dịch là Nhứt sanh nghĩa là còn một lần phải sanh vào cõi dục giới.

c) A Na Hàm: Người Tàu dịch là Bất lai nghĩa là không còn bị sanh trở lại vào dục giới nhưng nhân sanh vẫn còn.

d) A La Hán: Người Tàu dịch là bất sanh, quả vị nầy là cứu cánh của tiểu thừa, đạt đến quả vị này không còn sanh tử trong ba giới (dục giới, sắc giớivô sắc giới).

4) Ðạo đế : Là đường dẫn người ta đến cõi Niết Bàn, đây là Tám đường chánh (Bát Chánh Ðạo) phải đi:

a) Chánh tri kiến: Những điều tìm hiểu, thấy, biết theo đường chánh và giảng giải không trái sự thật.

b) Chánh tư duy: Những gì suy tư phải là những việc chánh đáng, không tà vạy, xấu xa, ác độc.

c) Chánh ngữ: Lời nói phải ngay thẳng, ôn hòa, đúng giáo lý.

d) Chánh nghiệp : Hành động phải chân chính, hữu ích cho mọi người, mọi loài.

e) Chánh mạng: Sanh hoạt, nghề nghiệp phải chân chánh.

g) Chánh tinh tấn: Phải tiến trên đường tu hành.

h) Chánh niệm: Những nhớ tưởng việc đã qua hay sắp đến chỉ để tâm đến những việc chân chánh, những việc không chân chánh không nhớ, tưởng đến.

i) Chánh định: Ðịnh tâm theo phương pháp chân chánh để trí huệ phát sinh.

Khổ và Tập đếnhân quả trong thế gian, Diệt và Ðạo đế là nhân quả vượt ngoài thế gian.

Ðạo đế của Bốn đế chỉ gồm có Tám đường chánh, như bước sơ cơ, là nền tảng cho người mới bước vào đường tu. Thật ra thì con đường tu chính yếu gồm có 37 phẩm trợ đạo, chia làm 7 loại:

1) Tứ niệm xứ (quán thân bất tịnh, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã, quán thọ thị khổ).

2) Tứ chánh cần (tinh tấn ngăn ngừa điều ác chưa phát sinh, tinh tấn dứt trừ những điều ác đã sinh, tinh tấn phát triển những điều lành chưa sinh, tinh tấn phát triển những điều lành đã sinh).

 3) Tứ như ý túc (dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, nhất tâm như ý túc, quán như ý túc).

4) Ngũ căn (tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn).

5) Ngũ lực (tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, huệ lực).

6) Thất bồ đề phần (trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định, xả).

7) Bát chánh đạo (chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định).

III.- Kết luận: Bốn đế là một bài giảng hết sức quan trọng, trước tiênđánh dấu bài pháp khởi đầu của Phật, bánh xe pháp khởi đầu chuyển động, đối với Phật tử nó cũng quan trọng vì đó là nhận thức cơ bản, thấy được Bốn đế nầy là chân lý từ đó người Phật tử mới có thể tin giáo lý của Phật, những điều thấy, biết được và cả những điều không thể nghĩ bàn đều là chân lý, theo đó tu hành để đạt tới từng chặng đường của Tam thừa (Ba cỗ xe): Thinh Văn (xe dê) là những vị hiểu rõ và hành theo Bốn đế, đắc đạo thành La Hánnhập Niết Bàn; Duyên Giác (xe hươu) là những vị tuân lời Phật dạy, tu hành và diệt Mười hai nhân duyên đắc quả Duyên Giác, nhập Niết Bàn; Bồ Tát (xe trâu) là những vị tuân lời Phật dạy cầu được toàn giác, an lạc cho mình vừa tế độ chúng sanh qua Sáu độ (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thuyền định và trí tuệ) thành Bồ Tát. Vượt lên trên hết chỉ là nhất thừa, ấy là Phật thừa, quả vị cao tột mà mọi người trì chí công phu tu tập, đều sẽ tới đó được.

Sách tham khảo :

HT. Thích Thiện Hoa Phật Học Phổ Thông, THPGTPHCM, Việt Nam, 1989

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7590)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7609)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6170)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 10034)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7138)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7376)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 7035)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9415)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5904)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7146)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6576)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6146)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7210)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14461)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20527)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9520)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7935)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8229)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7489)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9426)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7525)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7514)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7704)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9518)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8814)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7453)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 8003)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7065)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7716)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9901)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8305)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8878)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7728)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8875)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8693)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 8024)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9062)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9478)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8805)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8946)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7259)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9235)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8657)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7922)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9678)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10251)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8822)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8430)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7680)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9373)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7519)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15400)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7360)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8536)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12306)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7345)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11544)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8345)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8067)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7939)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant