Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hành xứ của người xuất gia

06 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 18465)
Hành xứ của người xuất gia
HÀNH XỨ CỦA NGƯỜI XUẤT GIA
E. Conze - dịch Việt: Hạnh Viên

blankTheo giới luật truyền thông của đạo Phật thì hàng năm, bắt đầu từ 15 tháng Tư trở đi cho đến 15 tháng Bảy âm lịch, toàn thể chư Tăng Ni tu học theo truyền thống thừa Bắc tông đều thực hành quy chế cấm túc, an cư tại các trú xứ như chùa chiền, tịnh xá, tịnh thất. Cấm túc an cư có nghĩa là giới hạn việc cư trú và sinh hoạt trong phạm vi một trú xứ, hạn chế tối đa việc đi lại và sinh hoạt ở bên ngoài, dành trọn thời gian ba táng an cư cho việc nghiêm trì giới – pháp của Đức Phật. Đây là thời điểm thuận lợi nhất cho người xuất gia tập trung tu tập lời Phật dạy để tăng tiến cho đạo nghiệp giải thoát. Đây cũng là khoảng thời gian tốt đẹp nhất cho người Phật tử tại gia thể hiện tấm lòng thể hiệntôn kính Tam bảo bằng cách học hỏiđộ trì cho chư Tăng Ni tập trung tu học tại các trú xứ. Chính vì thế mà sinh hoạt an cư hàng năm của chư Tăng Ni được xem là truyền thống tốt đẹp, luôn luôn được tôn trọngtuân thủ bởi mọi người con Phật, cả xuất gia cũng như tại gia. Trong giáo lý đạo Phật, cấm túc an cư được xem là “pháp nên hành trì” hay còn gọi là “hành xứ của người xuất gia”.

An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết. Vì thế, an cư củng có nghĩa là sống an ổnan lạc trong giáo pháp của Phật. Pháp của Phật được xem là trú xứ an lạc dành cho những ai sống ở trong đó. Nó cũng được xem là hành xứ an toàn tuyệt đối cho những ai đi lại trong đó. Vậy nên, càng chuyên tâm sống và đi lại trong trú xứ và hành xứ của Phật pháp thì con người càng hưởng được tự doan lạc lớn. Chư Tăng –Ni tuân theo giới luật của Phật, thực hành quy chế cấm túc an cư, tức dành trọn thời gian ba thánh để chuyên tâm tu tập và đi lại trong lời dạy của Đức Phật và do dó cũng có nghĩa là họ được sống an ổn an lạc trong trú xứ và hành xứ Phật pháp. Nhìn chung, an cư là cơ hội thuận lợi cho người xuất gia tiến tu trên con đường Giới – Định –Tuệ hướng đến mục tiêu giải thoát giác ngộ.

Thế nào là đi lại trong trú xứ Phật pháp hay còn gọi là hành xứ của người xuất gia? Nói đến việc đi lại trong trú xứ Phật pháp tức là nói đến sự kiện giáo pháp của Đức Phật được vận dụng tu tập, trở thành chỗ nương tựa tu học cho vị hành giả. Khi một vị hành giả ứng dụng giáo pháp của đức Phật vào việc tu tập, chẳng hạn, việc chuyên tâm nghiêm trì giới luật hay thực hành thiền định … thì bấy giờ vị ấy được xem là đang sống và đi lại trong trú xứ Phật pháp. Hành xử của người xuất gia có nghĩa là nơi chốn mà người xuất gia thường xuyên lui tới để được học hỏi và thăng tiến về mặt giới đức, tâm linhtrí tuệ hay phạm vi sinh hoạt thích đáng và hữu ích cho người xuất gia, ngụ ý sự chuyên tâm tu học của Đức Phật. Người xuất gia quyết tâm đi theo con đường của Phật, sống và hành xử theo giáo phápgiới luật do Đức Phật giảng dạy, không vượt ra ngoài phạm vi giáo phápgiới luật của Phật, do đó được gọi là người đi lại trong trú xứ Phật pháp. Nói cách khác, người xuất gia chỉ nên chuyên tâm đi lại và hành hoạt trong phạm vi giáo pháp Giới-Định-Tuệ của Đức Phật.

Trong đời sống sinh hoạt hằng ngày, mỗi người chúng ta đếu có nơi chốn nào đó, hữu hình hoặc vô hình, mà chúng ta thường hay lui tới hoặc đi lại và hành xử gọi là hành xứ. Theo lời dạy của Đức Phật thì hành xứ có nghĩa là chỗ đi lại hay phạm vi hoạt động của con người được thể hiện cụ thể qua các hoạt động củ thân, miệng, ý theo đúng tinh thần giáo phápgiới luật của Phật. Điều đó hàm ý rằng vị ấy phải tập uốn nắn và dẫn dắt các hành vi thuộc thân thể (thân hành), các hành vi thuộc lời nói (khẩu hành), các hành vi thuộc tâm thức (ý hành) của mình sao cho thật chơn chánh, đúng đắn, không sai phạm, không có tỳ vết lỗi lầm. Về điều này, trong bài kinh Mã ấp có nội dung nhấn mạnh đến các pháp tác thành sa-môn thuộc tuyển tập Trung Bộ, Đức Phật đã cho lời khuyên như sau : “Thân hành của vị ấy phải được thanh tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết che giấu. Khẩu hành của vị ấy phải được thanh tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết che giấu. Khẩu hành của vị ấy phải được thanh tịnh, minhchánh, cởi mở, không có tỳ vết che giấu”. Nói một cách cụ thể hơn thì người xuất gia phải tập kiểm soátuốn nắn thân, khẩu, ý của mình như thế nào để thân không rơi vào hành vi sai trái như sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục; miệng không rơi vào các hành vi sai trái như nói láo, nói hai lưỡi, nói độc ác, nói phù phiếm; ý không rơi vào các hành vi sai trái như tham dục, sân hận, tà kiến. khi người xuất gia nổ lực uốn nắn và dẫn dắt thân, khẩu, ý vận hành theo chiều hướng tốt đẹp như vậy thì được gọi là người đi lại trong trú xứ Phật pháp hay còn gọi là “ hành xứ của người xuất gia ”.

Cứ theo kinh điển được truyền lại thì người xuất gia có nhiều hành xứ an toàn để có thể tự do đi lại ở trong đó mà không sợ bị ai quấy rầy. Chúng ta có thể nói rằng mỗ lời dạy của Đức Phật chính là một hành xứ an ổn tuyệt đối mà người con Phật có thể ung dung bước đi trên đó một cách hết sức thanh thảnbình an. Bên cạnh việc uốn nắn thân, khẩu, ý trở nên đoan chánh ngay thẳng, không phạm tỳ vết lỗi lầm, được xem nhưhành xứ của người xuất gia, một vài phương pháp tu tập căn bản khác được tiếp tục nêu ra trong bản kinh cho thấy người xuất gia được gợi mở nhiều lối đi hết sức yên ổn và được hướng dẫn chu đáo trong phương pháp tu tập để được sống an lạc và đi lại an toàn trong trú xứ rộng lớn bao la của Phật pháp. Chẳng hạn, chúng ta có những lời khuyên tiếp theo của Đức Phật trong bài kinh Mả ấp, Trung Bộ:

-“ Sanh mạng vị ấy phải được thanh tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết che giấu ”.

-“ Vị ấy phải hộ trì căn bản: Khi thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không năm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì vì con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi , các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng …mũi ngửi hương …lưỡi nếm vị …thân cảm xúc …ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân vì căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn ”.

- “ Vị ấy phải biết tiết độ trong ăn uống. Vị ấy phải chơn chánh giác sát, thọ dụng thức ăn không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, mà chỉ để thân này được sống lâu và được bảo dưỡng, để thân này khỏi bị tổn hại, để hỗ trợ phạm hạnh, nghĩ rằng : “Như vậy ta sẽ diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên cảm thọ mới, và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn

- “ Vị ấy phải chú tâm cảnh giác. Ban ngày, khi đi kinh hành hay trong lúc ngồi, vị ấy tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại. Ban đêm canh một, khi đi kinh hành hay trong lúc ngồi, vị ấy tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại. Ban đêm canh giữa, vị ấy nằm theo dáng nằm sư tử, nghiêng bên hông tay phải, một chân đặt trên chân kia, chánh niệm tỉnh giác, tâm nghĩ đến lúc thức dậy lại. Ban đêm canh cuối, khi thức dậy đi kinh hành hay trong lúc ngồi, vị ấy tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại”.

- “ Vị ấy phải chánh niệm tỉnh giác, khi đi tới khi đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn uống, nhai, nuốt, đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác ”.

Trên đây là một vài phương pháp hành trì căn bản trong rất nhiều các pháp môn tu tập dành cho người xuất gia được nói đến đầy đủ trong kinh điển Phật giáo. Nhìn chung, người xuất gia được trang bị đầy đủ trú xứ và hành xứ tốt đẹp để có thể sống an lạc và đi lại an toàn trong suốt cuộc đời tu học của mình. Đó là toàn bộ giáo phápgiới luật của Đức Phật được lưu giữ trong tam tạng kinh điển. Người xuất gia chuyên tâm sống và đi lại trong trú xứ và hành xứ của Phật pháp, không vượt ra ngoài trú xứ và hành xứ ấy, thì nhất định sẽ tăng trưởng đạo nghiệp giải thoát và sẽ tránh được các phiền toái hay khổ não phát sinh.

Chư Tăng Ni sắp vào mùa an cư thúc liễm thân tâm theo tinh thần giáo phápgiới luật của Đức Phật, điều đó cũng có nghĩa là chư Tăng Ni quyết tâm dành nhiều thời gian để sống và đi lại trong trú xứ và hành xứ Phật pháp. Trong Kinh Tương Ưng có một câu chuyện ngụ ngôn thật ý nhị, nói về con chim cút khéo biết cách chống đỡ sức tấn công mạnh mẽ đáng sợ của con chim ưng, do Đức Phật kể cho các Tỳ- kheo nhằm lưu ý khuyên nhắc nhở người xuất gia nên chú tâm đi lại trong trú xứ Phật pháp để được bảo đảm an toànthực hiện mục tiêu tu học của mình, tránh được các hậu quả phiền toáikhổ não phát sinh do tình trạng đi nhầm đường lạc hướng. Nhân mùa an cư của chư Tăng Ni, chúng ta suy ngẫm lại câu chuyện ngụ ngôn ý nhị này 1 :

“ Thuở xưa, này các Tỳ – kheo, một con chim ưng cái thình lình vồ xuống và chụp lấy một con chim cút. Rồi này các Tỳ – kheo, con chim cút bị con chim ưng cái bắt

- Như thế này, thật bất hạnh cho tôi ! thật thiếu may mắn cho tôi ! vì rằng tôi đã đi không phải chỗ hành xử của mình, đi vào cảnh giới của người khác. Nếu tôi đi trong chỗ hành xứ của tôi, trong cảnh giới của cha mẹ tôi, thời con chim ưng này không thể hơn tôi, nếu phải đánh nhau.

- Này chim cút, thế nào là chỗ hành xứ của ngươi ? Thế nào là cảnh giới của cha mẹ ngươi ?

- Là vạt đất được lưỡi cáy xới lên.

Rồi này các Tỳ – kheo, con chim ưng cái không có siết mạnh sức mạnh của mình, không có bóp chặt sức mạnh của mình, thả con chim cút rồi nói :

- “ Hãy đi này chim cút. Sau khi đi tại chỗ ấy, ta sẽ không tha cho ngươi ”.

Rồi này các Tỳ – kheo, con chim cút đi đến vạt đất được lưỡi cày xới lên, leo lên một hòn đất lớn, đứng trên ấy và nói với con chim ưng:

- “ Hãy đến ta, này chim ưng ! Hãy đến ta, này chim ưng ! ”

Rồi này các Tỳ – kheo, con chim ưng cái siết mạnh sức mạnh của mình, bóp chặt sức mạnh của mình, xếp cả hai cánh, thình lình vồ lấy con chim cút. Này các Tỳ-kheo kho con chim cút biết được “con chim ưng này đang vồ mạnh xuống ta”, liền nấp sau hòn đá ấy. Này các Tỳ-kheo, ở đây con chim ưng ấy bị bể ngực.

Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, đối với ai đi tới chỗ không phải hành xứ của mình, đi đến cảnh giới của người khác. Do vậy, này các Tỳ-kheo, chớ có đi đến chỗ không phải hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của người khác. Này các Tỳ-kheo, đi đến chỗ hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của người khác. Thời Ác Ma nắm được cơ hội, Ác ma nắm được đối tượng.

Này các Tỳ-kheo, chỗ nào không phải hành xứ của Tỳ-kheo ? chỗ nào là cảnh giới của người khác ? chính là năm dục trưởng dưỡng. Thế nào là năm “

Có các sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Có các tiếng do tai nhận thức …có các tiếng do mũi nhận thức… có các vị do lưỡi nhận thức có các xúc do thân nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái liên hệ đến dục, hấp dẫn. Này các Tỳ-kheo, đây là chỗ không phải hành xứ của Tỳ-kheo, chỗ cảnh giới của người khác.

Này các Tỳ-kheo, hãy đi đến chỗ hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của cha mẹ mình. Này các Tỳ-kheo, đi đến chỗ hành xứ của mình, đến cảnh giới của cha mẹ mình, thời Ác ma không nắm được cơ hội, không nắm được đối tượng.

Và này các Tỳ-kheo, chỗ nào là hành xứ của mình? chỗ nào là cảnh giới của cha mẹ? Chính là bốn niệm xứ. Thế nào là bốn?

Ở đây, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác,chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời ; sống quán thọ trên các thọ …sống quán tâm trên tâm …sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Này các Tỳ-kheo, đây là chỗ hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của cha mẹ mình”.

Chú thích :
1 : Kinh Con chim ưng, Tương Ưng Bộ

(Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14521)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38517)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14661)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14662)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14085)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14979)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16578)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29926)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16240)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15573)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14929)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14927)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17900)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15605)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38704)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26765)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39696)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50818)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38777)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35084)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18333)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16494)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42436)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39284)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35643)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17478)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46561)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17173)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28518)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 19016)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17610)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17130)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17574)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16556)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16921)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30881)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16956)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18529)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18491)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17398)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18180)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17089)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23532)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 17014)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17477)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17696)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17078)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15759)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18070)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17450)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17233)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29555)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27761)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18199)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16133)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15391)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23072)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14864)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55155)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14219)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant