Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hành xứ của người xuất gia

06 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 18478)
Hành xứ của người xuất gia
HÀNH XỨ CỦA NGƯỜI XUẤT GIA
E. Conze - dịch Việt: Hạnh Viên

blankTheo giới luật truyền thông của đạo Phật thì hàng năm, bắt đầu từ 15 tháng Tư trở đi cho đến 15 tháng Bảy âm lịch, toàn thể chư Tăng Ni tu học theo truyền thống thừa Bắc tông đều thực hành quy chế cấm túc, an cư tại các trú xứ như chùa chiền, tịnh xá, tịnh thất. Cấm túc an cư có nghĩa là giới hạn việc cư trú và sinh hoạt trong phạm vi một trú xứ, hạn chế tối đa việc đi lại và sinh hoạt ở bên ngoài, dành trọn thời gian ba táng an cư cho việc nghiêm trì giới – pháp của Đức Phật. Đây là thời điểm thuận lợi nhất cho người xuất gia tập trung tu tập lời Phật dạy để tăng tiến cho đạo nghiệp giải thoát. Đây cũng là khoảng thời gian tốt đẹp nhất cho người Phật tử tại gia thể hiện tấm lòng thể hiệntôn kính Tam bảo bằng cách học hỏiđộ trì cho chư Tăng Ni tập trung tu học tại các trú xứ. Chính vì thế mà sinh hoạt an cư hàng năm của chư Tăng Ni được xem là truyền thống tốt đẹp, luôn luôn được tôn trọngtuân thủ bởi mọi người con Phật, cả xuất gia cũng như tại gia. Trong giáo lý đạo Phật, cấm túc an cư được xem là “pháp nên hành trì” hay còn gọi là “hành xứ của người xuất gia”.

An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết. Vì thế, an cư củng có nghĩa là sống an ổnan lạc trong giáo pháp của Phật. Pháp của Phật được xem là trú xứ an lạc dành cho những ai sống ở trong đó. Nó cũng được xem là hành xứ an toàn tuyệt đối cho những ai đi lại trong đó. Vậy nên, càng chuyên tâm sống và đi lại trong trú xứ và hành xứ của Phật pháp thì con người càng hưởng được tự doan lạc lớn. Chư Tăng –Ni tuân theo giới luật của Phật, thực hành quy chế cấm túc an cư, tức dành trọn thời gian ba thánh để chuyên tâm tu tập và đi lại trong lời dạy của Đức Phật và do dó cũng có nghĩa là họ được sống an ổn an lạc trong trú xứ và hành xứ Phật pháp. Nhìn chung, an cư là cơ hội thuận lợi cho người xuất gia tiến tu trên con đường Giới – Định –Tuệ hướng đến mục tiêu giải thoát giác ngộ.

Thế nào là đi lại trong trú xứ Phật pháp hay còn gọi là hành xứ của người xuất gia? Nói đến việc đi lại trong trú xứ Phật pháp tức là nói đến sự kiện giáo pháp của Đức Phật được vận dụng tu tập, trở thành chỗ nương tựa tu học cho vị hành giả. Khi một vị hành giả ứng dụng giáo pháp của đức Phật vào việc tu tập, chẳng hạn, việc chuyên tâm nghiêm trì giới luật hay thực hành thiền định … thì bấy giờ vị ấy được xem là đang sống và đi lại trong trú xứ Phật pháp. Hành xử của người xuất gia có nghĩa là nơi chốn mà người xuất gia thường xuyên lui tới để được học hỏi và thăng tiến về mặt giới đức, tâm linhtrí tuệ hay phạm vi sinh hoạt thích đáng và hữu ích cho người xuất gia, ngụ ý sự chuyên tâm tu học của Đức Phật. Người xuất gia quyết tâm đi theo con đường của Phật, sống và hành xử theo giáo phápgiới luật do Đức Phật giảng dạy, không vượt ra ngoài phạm vi giáo phápgiới luật của Phật, do đó được gọi là người đi lại trong trú xứ Phật pháp. Nói cách khác, người xuất gia chỉ nên chuyên tâm đi lại và hành hoạt trong phạm vi giáo pháp Giới-Định-Tuệ của Đức Phật.

Trong đời sống sinh hoạt hằng ngày, mỗi người chúng ta đếu có nơi chốn nào đó, hữu hình hoặc vô hình, mà chúng ta thường hay lui tới hoặc đi lại và hành xử gọi là hành xứ. Theo lời dạy của Đức Phật thì hành xứ có nghĩa là chỗ đi lại hay phạm vi hoạt động của con người được thể hiện cụ thể qua các hoạt động củ thân, miệng, ý theo đúng tinh thần giáo phápgiới luật của Phật. Điều đó hàm ý rằng vị ấy phải tập uốn nắn và dẫn dắt các hành vi thuộc thân thể (thân hành), các hành vi thuộc lời nói (khẩu hành), các hành vi thuộc tâm thức (ý hành) của mình sao cho thật chơn chánh, đúng đắn, không sai phạm, không có tỳ vết lỗi lầm. Về điều này, trong bài kinh Mã ấp có nội dung nhấn mạnh đến các pháp tác thành sa-môn thuộc tuyển tập Trung Bộ, Đức Phật đã cho lời khuyên như sau : “Thân hành của vị ấy phải được thanh tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết che giấu. Khẩu hành của vị ấy phải được thanh tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết che giấu. Khẩu hành của vị ấy phải được thanh tịnh, minhchánh, cởi mở, không có tỳ vết che giấu”. Nói một cách cụ thể hơn thì người xuất gia phải tập kiểm soátuốn nắn thân, khẩu, ý của mình như thế nào để thân không rơi vào hành vi sai trái như sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục; miệng không rơi vào các hành vi sai trái như nói láo, nói hai lưỡi, nói độc ác, nói phù phiếm; ý không rơi vào các hành vi sai trái như tham dục, sân hận, tà kiến. khi người xuất gia nổ lực uốn nắn và dẫn dắt thân, khẩu, ý vận hành theo chiều hướng tốt đẹp như vậy thì được gọi là người đi lại trong trú xứ Phật pháp hay còn gọi là “ hành xứ của người xuất gia ”.

Cứ theo kinh điển được truyền lại thì người xuất gia có nhiều hành xứ an toàn để có thể tự do đi lại ở trong đó mà không sợ bị ai quấy rầy. Chúng ta có thể nói rằng mỗ lời dạy của Đức Phật chính là một hành xứ an ổn tuyệt đối mà người con Phật có thể ung dung bước đi trên đó một cách hết sức thanh thảnbình an. Bên cạnh việc uốn nắn thân, khẩu, ý trở nên đoan chánh ngay thẳng, không phạm tỳ vết lỗi lầm, được xem nhưhành xứ của người xuất gia, một vài phương pháp tu tập căn bản khác được tiếp tục nêu ra trong bản kinh cho thấy người xuất gia được gợi mở nhiều lối đi hết sức yên ổn và được hướng dẫn chu đáo trong phương pháp tu tập để được sống an lạc và đi lại an toàn trong trú xứ rộng lớn bao la của Phật pháp. Chẳng hạn, chúng ta có những lời khuyên tiếp theo của Đức Phật trong bài kinh Mả ấp, Trung Bộ:

-“ Sanh mạng vị ấy phải được thanh tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết che giấu ”.

-“ Vị ấy phải hộ trì căn bản: Khi thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không năm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì vì con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi , các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng …mũi ngửi hương …lưỡi nếm vị …thân cảm xúc …ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân vì căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn ”.

- “ Vị ấy phải biết tiết độ trong ăn uống. Vị ấy phải chơn chánh giác sát, thọ dụng thức ăn không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, mà chỉ để thân này được sống lâu và được bảo dưỡng, để thân này khỏi bị tổn hại, để hỗ trợ phạm hạnh, nghĩ rằng : “Như vậy ta sẽ diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên cảm thọ mới, và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn

- “ Vị ấy phải chú tâm cảnh giác. Ban ngày, khi đi kinh hành hay trong lúc ngồi, vị ấy tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại. Ban đêm canh một, khi đi kinh hành hay trong lúc ngồi, vị ấy tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại. Ban đêm canh giữa, vị ấy nằm theo dáng nằm sư tử, nghiêng bên hông tay phải, một chân đặt trên chân kia, chánh niệm tỉnh giác, tâm nghĩ đến lúc thức dậy lại. Ban đêm canh cuối, khi thức dậy đi kinh hành hay trong lúc ngồi, vị ấy tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại”.

- “ Vị ấy phải chánh niệm tỉnh giác, khi đi tới khi đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn uống, nhai, nuốt, đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác ”.

Trên đây là một vài phương pháp hành trì căn bản trong rất nhiều các pháp môn tu tập dành cho người xuất gia được nói đến đầy đủ trong kinh điển Phật giáo. Nhìn chung, người xuất gia được trang bị đầy đủ trú xứ và hành xứ tốt đẹp để có thể sống an lạc và đi lại an toàn trong suốt cuộc đời tu học của mình. Đó là toàn bộ giáo phápgiới luật của Đức Phật được lưu giữ trong tam tạng kinh điển. Người xuất gia chuyên tâm sống và đi lại trong trú xứ và hành xứ của Phật pháp, không vượt ra ngoài trú xứ và hành xứ ấy, thì nhất định sẽ tăng trưởng đạo nghiệp giải thoát và sẽ tránh được các phiền toái hay khổ não phát sinh.

Chư Tăng Ni sắp vào mùa an cư thúc liễm thân tâm theo tinh thần giáo phápgiới luật của Đức Phật, điều đó cũng có nghĩa là chư Tăng Ni quyết tâm dành nhiều thời gian để sống và đi lại trong trú xứ và hành xứ Phật pháp. Trong Kinh Tương Ưng có một câu chuyện ngụ ngôn thật ý nhị, nói về con chim cút khéo biết cách chống đỡ sức tấn công mạnh mẽ đáng sợ của con chim ưng, do Đức Phật kể cho các Tỳ- kheo nhằm lưu ý khuyên nhắc nhở người xuất gia nên chú tâm đi lại trong trú xứ Phật pháp để được bảo đảm an toànthực hiện mục tiêu tu học của mình, tránh được các hậu quả phiền toáikhổ não phát sinh do tình trạng đi nhầm đường lạc hướng. Nhân mùa an cư của chư Tăng Ni, chúng ta suy ngẫm lại câu chuyện ngụ ngôn ý nhị này 1 :

“ Thuở xưa, này các Tỳ – kheo, một con chim ưng cái thình lình vồ xuống và chụp lấy một con chim cút. Rồi này các Tỳ – kheo, con chim cút bị con chim ưng cái bắt

- Như thế này, thật bất hạnh cho tôi ! thật thiếu may mắn cho tôi ! vì rằng tôi đã đi không phải chỗ hành xử của mình, đi vào cảnh giới của người khác. Nếu tôi đi trong chỗ hành xứ của tôi, trong cảnh giới của cha mẹ tôi, thời con chim ưng này không thể hơn tôi, nếu phải đánh nhau.

- Này chim cút, thế nào là chỗ hành xứ của ngươi ? Thế nào là cảnh giới của cha mẹ ngươi ?

- Là vạt đất được lưỡi cáy xới lên.

Rồi này các Tỳ – kheo, con chim ưng cái không có siết mạnh sức mạnh của mình, không có bóp chặt sức mạnh của mình, thả con chim cút rồi nói :

- “ Hãy đi này chim cút. Sau khi đi tại chỗ ấy, ta sẽ không tha cho ngươi ”.

Rồi này các Tỳ – kheo, con chim cút đi đến vạt đất được lưỡi cày xới lên, leo lên một hòn đất lớn, đứng trên ấy và nói với con chim ưng:

- “ Hãy đến ta, này chim ưng ! Hãy đến ta, này chim ưng ! ”

Rồi này các Tỳ – kheo, con chim ưng cái siết mạnh sức mạnh của mình, bóp chặt sức mạnh của mình, xếp cả hai cánh, thình lình vồ lấy con chim cút. Này các Tỳ-kheo kho con chim cút biết được “con chim ưng này đang vồ mạnh xuống ta”, liền nấp sau hòn đá ấy. Này các Tỳ-kheo, ở đây con chim ưng ấy bị bể ngực.

Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, đối với ai đi tới chỗ không phải hành xứ của mình, đi đến cảnh giới của người khác. Do vậy, này các Tỳ-kheo, chớ có đi đến chỗ không phải hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của người khác. Này các Tỳ-kheo, đi đến chỗ hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của người khác. Thời Ác Ma nắm được cơ hội, Ác ma nắm được đối tượng.

Này các Tỳ-kheo, chỗ nào không phải hành xứ của Tỳ-kheo ? chỗ nào là cảnh giới của người khác ? chính là năm dục trưởng dưỡng. Thế nào là năm “

Có các sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Có các tiếng do tai nhận thức …có các tiếng do mũi nhận thức… có các vị do lưỡi nhận thức có các xúc do thân nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái liên hệ đến dục, hấp dẫn. Này các Tỳ-kheo, đây là chỗ không phải hành xứ của Tỳ-kheo, chỗ cảnh giới của người khác.

Này các Tỳ-kheo, hãy đi đến chỗ hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của cha mẹ mình. Này các Tỳ-kheo, đi đến chỗ hành xứ của mình, đến cảnh giới của cha mẹ mình, thời Ác ma không nắm được cơ hội, không nắm được đối tượng.

Và này các Tỳ-kheo, chỗ nào là hành xứ của mình? chỗ nào là cảnh giới của cha mẹ? Chính là bốn niệm xứ. Thế nào là bốn?

Ở đây, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác,chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời ; sống quán thọ trên các thọ …sống quán tâm trên tâm …sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Này các Tỳ-kheo, đây là chỗ hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của cha mẹ mình”.

Chú thích :
1 : Kinh Con chim ưng, Tương Ưng Bộ

(Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12286)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11971)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12863)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26736)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13118)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27121)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32952)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31760)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32651)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13077)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12214)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17592)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18813)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12623)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11822)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13181)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12298)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12551)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11709)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 12052)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10675)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10975)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28419)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11234)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11446)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13656)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11108)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11503)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10974)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11250)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26446)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12448)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14959)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11141)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20431)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12436)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11556)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10845)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 24030)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11933)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12391)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12917)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11127)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38816)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10620)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12285)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17801)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25180)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10609)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10839)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12124)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11414)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11674)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14801)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21524)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9983)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11333)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27492)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11243)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11914)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant