Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời giới thiệu

06 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 15361)
Lời giới thiệu

GIỚI THIỆU

Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới. Như đã được tiên tri trong Lankavatara Sutra (Kinh Lăng Già), Manjushrimu-lakalpa Tantra, cũng như trong vài thuyết pháp khác của Phật, Acarya Nagarjuna cách mạng sự giải thích giáo lý của bậc Giác Ngộ vào thời đại mình và đóng góp cho nó một sức sống và sự năng động tiếp tục giữ gìn nó thậm chí đến ngày hôm nay trong những vị hiến mình phụng sự Đại thừa. Cuộc cách mạng mà Acarya Nagarjuna hoàn thành trong dòng chảy Phật giáo không phải, như một số người có thể nghĩ, là một bước khởi đi căn bản khỏi giáo lý nguyên thủy của Phật Thích Ca. Trái lại, những người theo học phái Trung Đạo (Madhyamaka) đã chứng tỏ rằng sự giải thích của họ tiêu biểu cho nội dung đích thực của giáo lý của Phật và tinh túy của Phật giáo. Dù mục tiêu của chúng tôi ở đây không phải là dẫn chứng cho điều này, có thể đơn giản nói rằng chân lý của nó không thoát khỏi sự nhận xét của những học giả thẩm quyền trong lãnh vực này.

Khi biết sự uy nghi của tên tuổivai trò quan trọng của Bồ tát Long Thọ trong sự phát triển của tư tưởng Phật giáo, thật không có gì ngạc nhiên khi câu chuyện cuộc đời ngài dính dáng đến những truyền thuyết và huyền thoại. Những người viết tiểu sử ngài đã gồm vào đó những yếu tố, dù chắc hẳn là những sự kiện của lịch sử tôn giáo, cũng khó mà xác minh sự thật của chúng. Chắc chắn là một tiểu sử bằng Anh ngữ của Bồ tát Long Thọ được dịch từ nhiều bản tiểu sử của ngài lưu hành trong ngôn ngữ Tây Tạng là điều đáng ao ước, đó là một công việc không nhỏ. Do đó vì mục đích giới thiệu tác phẩm này chúng tôi tự giới hạn trong một tóm tắt cuộc đời của ngài căn cứ trên những sự việc có thể xác minh với sự chắc chắn tương đối, rút từ những tiểu sử truyền thống trong chừng mực những sự kiện đó không mâu thuẫn nhau.

Bồ tát Long Thọ sống trong khoảng một phần tư cuối cùng của thế kỷ thứ nhất và một phần tư đầu của thế kỷ thứ hai. Điều này là rõ ràng từ tình bạn với một nhà vua của dòng họ Satavahana của Andhra. Nhà vua, Gautamiputra Satakarni, con của hoàng hậu Bala Sri, là người độc nhất của dòng họ theo Phật giáo và chính vì ông mà Bồ tát Long Thọ viết Suhrïllekha và Ratnavali. Những nhà viết tiểu sử truyền thống đồng ý rằng ngài Long Thọ sanh ra trong một gia đình bà la môn ở Nam Ấn. Những bản tiểu sử Tây Tạng nói rằng khi mới sanh, các nhà chiêm tinh tiên đoán đứa trẻ sẽ sống không quá bảy tuổi. Không thể chịu nổi viễn cảnh ấy, cha mẹ nó gởi đứa bé đến một tu viện Phật giáo, nơi đó bằng cách đọc tụng Aparimitayuddharani, nó thành công thoát khỏi số mệnh. Bản tiểu sử của Cưu Ma La Thập về thời trẻ của Bồ tát Long Thọ khác một cách căn bản với những bản Tây Tạng. Nó được đề cập ở đây chỉ vì nó được xem là sớm hơn các bản Tây Tạng, và như vậy đáng được lưu ý. Cưu Ma La Thập viết rằng thời trẻ ngài Long Thọ bị dục vọng cám dỗ và nhờ nghệ thuật tàng hình đã quyến rũ những phụ nữ trong cung điện vua. Nhưng một lần, ngài suýt chết dưới bàn tay của những người canh gác, một kinh nghiệm dẫn ngài tin vào lời dạy của đức Phật rằng tham muốnnguyên nhân lớn nhất của khổ. Kết quả là ngài vào Tăng đoàn, theo lời kể của Cưu Ma La Thập. Sau đó, theo tài liệu Tây Tạng, Long Thọ trở thành một học trò của Rahulabhadra (cũng còn được biết với tên Mahasiddha Saraha), bấy giờ là Trụ trì đại học ở Nalanda.

Gần như mọi nhà tiểu sử truyền thống đồng ý rằng Acarya Nagarjuna lấy những Kinh Bát Nhã Ba La Mật từ loài Rồng (Naga). Dù một số gợi ý rằng từ này thường được dùng để chỉ một nhóm các đại yogi, ý nghĩa chính xác của chữ này vẫn không chắc chắn. Cuối cùng, ngài Long Thọ hình như để phần cuối đời ở trong tu viện do người bạn và thí chủ là Vua Gauta-miputra ở Sri Parvata xây cho. Dù những chuyện kể nói về cái chết của ngài có khác nhau về chi tiết, chúng đồng ý rằng Long Thọ bằng lòng với cái chết của mình trong tay con của vua Gautamiputra.

Acarya Nagarjuna là một đạo sư thành tựu của Phật giáo. Ngài viết nhiều về hầu hết mọi khía cạnh của triết họctôn giáo Phật giáo. Dù ngài Long Thọ được đông đảo xem là người tiên phong số một của “trung đạo”, hay Madhyamapratipad, và như một vị thầy của biện chứng, những tác phẩm của ngài cũng gồm những công trình về Luật, về Tantra, về Bồ tát hạnh, và về thực hành Thừa Ba la Mật (Paramitayana). Trong loại sau gồm có bình giảng về Dasabhumikasutra (Kinh Thập Địa), Sutrasamuccaya và những cái khác. Ngài Long Thọ còn viết những tác phẩmtính chất sùng mộ cao, như Catuhstava. Đáng tiếc là quá ít những tác phẩm như vậy của ngài được dịch sang tiếng Anh. Hy vọng rằng những năm tới tình trạng này sẽ được cải thiệntác phẩm nhỏ này sẽ đóng góp một phần nhỏ cho tiến trình ấy.

Suhrïllekha của Acarya Nagarjuna là một tóm tắt khúc chiết và dễ hiểu về giáo lý Phật giáo. Nói chung nó có thể cho là thuộc về loại bản văn mà sau này được gọi ở Tây Tạng là những bản văn của con đường tiệm tiến hay lam-rim. Những tác phẩm của Long Thọ, đặc biệt là Sutrasamuccaya nhưng cũng ở một cấp độ kém hơn là Suhrïllekha, là những cái đi trước của vô số bản văn có thể được xếp loại dưới tên lam-rim. Chúng bao gồm những tác phẩm như Siksasamuccaya của Shanti-deva, Trang Hoàng Ngọc Báu của Giải Thoát của Sgam-po-pa và Minh Giải Tư Tưởng của Bậc Trí của Sakya Pandita Kunga. Gyaltsen. Pal. Zangpo. Không ngạc nhiên rằng phong cách khúc chiết và nội dung dễ hiểu của một tác phẩm như Suhrïllekha của Long Thọ làm cho nó phổ thông như một phương tiện chuyên chở vắn tắt giáo lý Phật giáo. Suhrïllekha được phổ thông như vậy ở Ấn Độ được nói rõ trong lời kể của nhà hành hương Trung Hoa Nghĩa Tịnh đến Ấn Độ vào thế kỷ thứ bảy, ngài viết, “Ở Ấn những học trò học bản văn này bằng kệ rất sớm, nhưng những người sùng tín nhất xem nó là đối tượng đặc biệt để nghiên cứu trọn đời”. Ngày nay Suhrïllekha cũng được phổ biến rộng trong người Tây Tạng, họ dùng nó với sự đều đặn như một cẩm nang căn bản cho việc dạy Phật pháp. Bởi thế hy vọng rằng bản dịch Anh ngữ này sẽ hữu dụng cho những người muốn có được một hiểu biết căn bản về Phật giáo. Tính chất dễ hiểu của nó, dù ngắn, cũng làm cho nó rất thích hợp để dùng như một dẫn nhập vào toàn bộ Phật giáo. Vì nó chủ yếu viết cho người tại gia, một bức thư của ngài Long Thọ gởi tới vua Satavahana như một người bạn lâu năm, những lời dạy bao gồm trong đó có thể được một số đông rộng rãi độc giả hâm mộ với những thích thú khác nhau. Dù cho những học giả và những nhà hàn lâm muốn tìm sự minh giải một số điểm khó hiểu trong giáo lý Trung Đạo có thể ít thỏa mãn trong Suhrïllekha, những ai muốn có một cẩm nang khúc chiết và dễ hiểu về giáo thuyết và thực hành Phật giáo chắc chắn sẽ không thất vọng.

Dù Suhrïllekha chứa đựng những yếu tố thuộc về Đại thừa, nhiều phần nó gồm một nền tảng chung cho cả Tiểu thừaĐại thừa. Bức thư bắt đầu với một cầu nguyện để trau dồi lòng tin vào cái tối tôn, như Phật, Pháp và Tăng. Rồi tiếp theo một tóm tắt dài về những quy tắc đạo đứctôn giáo, mà nếu làm theo, sẽ có kết quả là sanh vào những cõi may mắn của người và chư thiên, như Acarya Nagarjuna viết, “…giới luật được nói là nền tảng của mọi đức hạnh, công đức, như đất là chỗ nương tựa của những vật sống và những vật vô tri”. Những yêu cầu và cấm đoán được nêu ra trong bản văn đều đi kèm với những thực hành được dùng để đối nghịch lại với những xu hướng không đức hạnh. Như ngài Long Thọ viết trong câu kệ thứ bốn mươi, “Hãy luôn luôn thiền định đúng đắn về từ, bi, hỷ, xả…” Cũng bằng một tầm quan trọng như vậy là phần để xóa bỏ những quan điểm sai lầm do vô minh gây ra, vì đạo đức được thực hành trong vô minh thì không đưa đến kết quả giải thoát. Tuy nhiên, qua sự phối hợp của giới luậttrí huệ (sự thấu hiểu tánh không) giải thoát mới đạt được. Tánh không này, Chân Lý Tối Hậu, được phát hiện nhờ xóa bỏ những quan điểm sai lầm.

Cái chết, vô thường và những điều kiện thuận lợi tạo thành chủ đề cho những bài kệ tiếp theo của bản văn. Vì cuộc đời thì chóng vánh như một bọt nước bị gió thổi tan, Long Thọ cổ vũ độc giả, đã có những điều kiện may mắn làm tiền đề cho sự thực hành Pháp, hãy cố gắng cho giải thoát không trì hỗn. Nếu sự sanh làm người không được sử dụng thích đáng, người ta sẽ tiếp tục kinh nghiệm khổ đau của sáu cõi sanh tử luân hồi, như được Long Thọ diễn tả. Những diễn tả này giống như những bản văn cùng loại. Chúng làm phát sanh một sự ghê sợ đối với hiện hữu sanh tử và một mong muốn giải thoát. Độc giả gặp những diễn tả này lần đầu cần được cảnh báo chớ hiểu lầm chúng là tưởng tượng hoang đường, vì chúng làm hoàn thiện một chức năng trọng yếu trong tiến trình giải thoát. Bởi vì mục đích cao nhất là giải thoátgiác ngộ không thể hoàn thành trừ phi và cho tới khi nào bám luyến vào thế giới được thanh toán, những mô tả chi tiết của những khổ đau nhiều mặt là cần thiết để sanh ra sự từ bỏ, điều này là thiết yếu để bước lên con đường đến giải thoát. Cần nhớ rằng “chân lý về khổ” là cái đầu tiên của Bốn Chân Lý Cao Cả và là hòn đá nền của Phật giáo.

Bức thư của ngài Long Thọ kết thúc với một diễn tả con đường và kết quả vô song sẽ đạt được qua thực hành này. Giới, định và huệ sanh khởi từ sự thấu hiểu Duyên Sanh, bao trùm con đường đưa đến trạng thái cao cả của một Bồ tát hay Phật.

Từ đó, như đã nói ở trước, Suhrïllekha của Acarya Nagarjuna cung cấp cho người ngưỡng mộ muốn làm quen với những căn bản của con đường giải thoát một tóm tắt dễ hiểu những nguyên lý Phật giáo. Nền tảng của hạnh kiểm đạo đức đúng và cái hiểu đúng về chân lý giải thoát khỏi những che chướng của vô minh tựu thành một cách thức hiện hữu siêu việt, nó không chỉ là giải thoát khỏi ràng buộcvô minh, mà còn là khả năng trưởng dưỡng tất cả chúng sanh để họ cũng đạt đến giác ngộ.

 


ABOUT PETER DELLA SANTINA

Peter Della Santina was born in the USA. He has spent many years studying and teaching in South and East Asia. He received his BA. in religion from Wesleyan University, Middletown, Connecticut, USA in 1972 and a MA in philosophy from the University of Delhi, India two years later. He did his Ph.D. in Buddhist Studies also from the University of Delhi, India in 1979. 

He worked for three years for the Institute for Advanced Studies of world 
Religions, Fort Lee, New Jersey as a research scholar translating 8th century Buddhist philosophical texts from the Tibetan. He taught at several Universities and Buddhist centers in Europe and Asia including, the University of Pisa in Italy, the National University of Singapore and Tibet House in Delhi, India. He was the Coordinator of the Buddhist Studies project at the Curriculum Development Institute of Singapore, a department of the Ministry of Education from 1983 to 1985. 

 More recently, he was a senior fellow at the Indian Institute of Advanced Study, Simla, India and taught Philosophy at the Fo Kuang Shan Academy of Chinese Buddhism, Kaoh-shiung, Taiwan. 

For twenty-five years Peter Della Santina has been a student of H.H. Sakya Trizin, leader of the Sakya Order of Tibetan Buddhism and of eminent abets of the Sakya Tradition. He has practiced Buddhist meditation and has completed a number of retreats. He has published several books and articles in academic journals including Nagarjuna's Letter to King Gautamiputra, Delhi 1978 and 1982 and Madhyamaka Schools In India, Delhi 1986 and the Madhyamaka and Modern Western Philosophy, Philosophy East and West, Hawaii, 1986.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34605)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32215)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30425)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30690)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21034)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20213)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19445)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24401)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30703)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15700)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27816)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19782)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15584)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23272)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23593)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17547)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15708)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21921)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38047)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22206)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23274)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21370)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28432)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32580)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25208)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34711)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22974)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27744)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31335)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13619)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25222)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27860)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22129)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20762)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22229)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27171)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24172)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21941)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14727)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23189)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24042)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21152)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14219)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19953)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22526)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14086)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28071)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22853)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28229)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 11008)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28526)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31595)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26218)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14987)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28054)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7454)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25388)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20718)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21143)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12271)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant