Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tháp: ý nghĩacông dụng

15 Tháng Chín 201000:00(Xem: 21415)
Tháp: ý nghĩa và công dụng
altTiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn, lăng mộ, linh miếu v.v..

Ban đầu sthùpa dùng để chỉ cho những chỗ được kiến tạo để thờ xá lợi của Phật, nhưng về sau nó được dùng lẫn lộn với chi đề (cetiya - điện thờ). Ma ha tăng kỳ luật quyển 33, và Pháp Hoa nghĩa sớ quyển 11 quy định rõ: Phàm nơi nào có xá lợi của Phật thì gọi là tháp, không có xá lợi của Phật thì gọi là chi đề. Căn cứ vào đây thì 8 ngôi tháp tôn trí xá lợi của Phật tại Câu Thi Na, Ma Kiệt Đà v.v.. mới đích thực là sthùpa (tháp). Ngoài ra, các ngôi tháp nơi Phật đản sinh tại thành Ca Ti La Vệ, ngôi tháp chỗ Phật thành đạo dưới gốc cây bồ đề, ngôi tháp chỗ Phật chuyển pháp luân tại vườn Lộc Uyển, ngôi tháp chỗ Phật hiện thần thông tại tinh xá Kỳ Viên, ngôi tháp có 3 cấp báu bên thành Khúc Nữ, ngôi tháp chỗ để kinh Đại thừa trong núi Kỳ Xà Quật, ngôi tháp tại rừng Am La Vệ, nơi Duy Ma Cật thị hiện bệnh, ngôi tháp chỗ Phật Niết bàn trong rừng Sala, (8 linh tháp lớn này) đều thuộc về chi đề. Nguyên uỷ về việc tạo tháp bắt đầu từ thời Đức Phật, Thập tụng luật quyển 56 chép: Trưởng giả Tu Đạt từng xin tóc và móng tay của Phật về xây tháp để cúng dường. Ngoài ra, Ma ha tăng kỳ luật, quyển 33 chép: Vua Ba Tư Nặc noi gương Phật, kiến tạo tháp Phật Ca Diếp để lễ bái, cúng dường hằng ngày.

Sau khi Phật nhập diệt, Bà la môn Hương Tánh chia xá lợi của Phật cho 8 nước; rồi các vị quốc vương rước xá lợi ấy về nước xây tháp cúng dường. Đó là lịch sử xây tháp đầu tiên sau khi Phật Niết bàn. Ngoài ra, theo A Dục vương truyện quyển 1 và Thiện kiến luật Tì bà sa quyển 1 đều chép rằng: khoảng 200 năm sau Phật nhập diệt, vua A Dục trị vì nước Ma Kiệt Đà đã xây 84.000 ngôi bảo tháp trong vương quốc của mình.

I. Vài ngôi tháp tiêu biểu tại những nước Phật giáo

Nếu căn cứ vào ý nghĩa rộng rãi của tháp mà nói thì các nơi trên thế giới đã từng kiến tạo tháp rất nhiều. Chúng ta có thể kể đến một số ngôi tiêu biểu tại những nơi theo Phật giáo như sau:

1. Ấn Độ: Tại Ba Hách Đặc (Bharhut) có một ngôi tháp di tích, thân tháp đã huỷ hoại hết, nhưng còn nền tháp và những tảng đá. Thời gian xây tháp này khoảng 200 năm trước Tây lịch.

- Ngôi tháp tại Bồ Đề Đạo Tràng kiến tạo khoảng 100 năm trước Tây lịch.

- Tháp thờ tại động A Chiên Đa (Ajanta) và tại hang Na Tây Khắc (Nàsik).

Vua Ca Nị Sắc Ca (kaniska) nước Kiền Đà La thuộc Bắc Ấn Độ xây một ngôi tháp cao 32m dưới núi Tuyết Sơn, khoảng thế kỷ thứ nhất Tây lịch. Đồng thời nhà vua cũng xây một ngôi tháp khác, gồm 13 tầng cao hơn 200m, mà theo sách Lạch Dương Già ký quyển 5 thì đây là ngôi tháp đặc sắc nhất trong những ngôi tháp tại Tây Vức...

2.Tích Lan (SriLanka): Vua Thiên Ái Đế Tu (Devànampiya Tissa) đã kiến tạo một số ngôi tháp tại Tháp Viên (Thùpàràma). Đó là những ngôi tháp xuất hiện sớm nhất trên Tích Lan. Ngoài ra, trên núi Vô úy (Abhayagiri) có một ngôi tháp cao 120m, kiến tạo vào thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch. Đây là một trong những ngôi tháp cổ rất nổi tiếng tại Tích Lan.

3. Miến Điện (Myanmar): Nước này có tháp Phật Đoan Đức Cung (Shwedagon) tại Ngưỡng Quang (Rangoon) cao 118m; tháp Tu Mã Đổ (S'emaudau) tại Tí Cổ (pegu) cao 102m. Toàn bộ mặt ngoài của tháp đều được thếp vàng và có 10 ngôi tháp nhỏ ở xung quanh.

4. Thái Lan: Tại cố đô Du Địa Á (Ayuthia) còn lưu lại không ít những ngôi tháp Phật cổ xưa. Ngoài ra, tại Băng Cốc (Bangkok) còn có tháp Phỉ Lạp thác mỗ ma yết đề (Phra - Thomma - Chedi) cao 125m, và ngôi tháp Thanh Tự (Wat Ching) đều là những ngôi tháp nổi tiếng thế giới.

5. Lào: Nước Lào có tháp Duy Ân Thường (Chom - Vien chang), tháp Khoa Ma Nghinh (Chom - yong), đều là những ngôi tháp cổ trọng yếu hiện còn.

6. Trảo - Oa (Java): Nơi đây có Bà La phù đồ (Borobudur) là một ngôi tháp quy mô, bề thế; nền tháp hình tứ giác, chính giữa là một ngôi tháp lớn đứng thẳng lên tới đỉnh, và chu vi thân tháp gồm có 72 ngôi tháp nhỏ. Trong mỗi ngôi tháp nhỏ đều đặt tượng phật, toàn bộ kiến trúc có nhiều tầng cấp, hình dáng tương tự kim tự tháp. Chiều dài, chiều rộnh mỗi bên 123m, và chiều cao 42m. Đó là thánh địa Phật giáo Đaị thừa hiện còn, rất to lớn và rất trang nghiêm.

7. Ni Bạt Nhĩ (Nepal): Xứ này có tháp Ô nhã mỗ bố na đức (Snuyambhunàth) tại Gia Đức Mãn Đô (Katmandu) rất lớn, hình dạng như cái bát úp, ở trên có 10 tầng tướng luân, đỉnh tháp để thiên cái (lọng báu).

8. Tây Tạng: Tháp ở Tây Tạng thường được gọi là Lạt ma tháp, và đa số tháp ở đây đều có hình dáng nhỏ.

9. Trung Quốc: Tại Trung Quốc, thời đại tạo tháp được ghi nhận sớm nhất là thời Tam Quốc. Tương quyền vào năm Xích Ô thứ 3 (năm 240), vua Đông Ngô là Tôn Quyền sai Khương Tăng Hội đã chí thành cầu nguyện, cảm được xá lợi xuất hiện. Do đó, nhà vua rất thán phục, cho xây tháp để cúng dường, gọi nơi này là chùa Kiến Sơ. Thế nhưng, theo Phật Tổ thống kỷ quyển 54 thì ngôi tháp tại chùa Bạch Mã được xây vào năm Vĩnh Bình thứ 10 (năm 67) đời vua Hán Minh Đế, mới là ngôi tháp sớm nhất của Trung Quốc. Về sau, sự tích các triều đại xây tháp vẫn còn tiếp tục. Vào năm Thái Khang thứ 2 (năm 281), đời vua Võ Đế nhà Tây Tấn, Huệ Đạt ở huyện mậu, tỉnh Chiết Giang trông thấy một bảo tháp từ dưới đất hiện lên, cao độ 45m, rộng khoảng 22m. Do thế, ông bèn xây tháp tại ấy. Năm Huy Bình nguyên niên (năm 516) đời Bắc Ngụy, Linh thái hậu là Hồ thị sai thợ thiền nghệ kiến trúc một ngôi tháp gỗ tại chùa Vĩnh Ninh, Lạc Dương, gồm 9 tầng, cao 320m, đứng cách xa một trăm dặm vẫn có thể trông thấy. Nhưng đáng tiếc là ngày nay ngôi tháp này không còn.Vào đời nhà Tùy, vua Tùy Dạng Đế đã vì Đại sư Trí Khải mà xây một ngôi bảo tháp bằng gạch tại chùa Quốc Thanh, núi Thiên Thai. Ngôi tháp này hình lục giác, gồm 4 tầng, cao độ 74m. Vua Đường Thái Tông cũng từng theo lời thỉnh cầu của Đường Tam Tạng Huyền Trang mà xây một ngôi tháp gạch tại chùa Từ Ân, Tây An, cao 58m.

10. Nhật Bản: Vào tháng 2 năm Kính Đạt Thiên hoàng thứ 14 (mă, 585) viên quan đại thần Tô Ngã Mã Tử tạo một ngôi tháp ở phía Bắc Đại Dã Khâu. Ở trên đầu chóp tháp tôn trí ngọc xá lợi mà ông đã thỉnh được. Đến năm Suy Cổ Thiên hoàng thứ 15 (năm 606), Thánh Đức thái tử tạo một ngôi tháp 5 tầng tại chùa Pháp Long, đến nay vẫn còn. Đây là ngôi tháp gỗ cổ nhất thế giới.

II. Hình dáng của tháp:

Về chủng loại của tháp rất phong phú, nếu dùng hình dáng để phân loại thì ta có:tháp phú bát, tháp khám, tháp trụ, tháp nhạn, tháp lộ, tháp ốc, tháp vô bích, , tháp Lạt ma, tháp nhiều tầng, tháp vuông, tháp tròn, tháp hình lục giác, tháp hình bát giác, tháp đại, tháp đa bảo, tháp du kỳ, tháp Ngũ luân, tháp hình trứng, tháp vô phùng, tháp lâu các, tháp mật diêm, tháp kim cương bảo tòa, tháp mộ...

Trong các hình thức của tháp thì hình thức tháp phú bát (bát úp) là xưa nhất. Theo luật Ma ha tăng kỳ quyển 33, và hữu bộ tùy nại da tạp sự quyển 18 thì tháp phú bát gồm có các bộ phận sau đây cấu thành: thân tháp hình bát úp, đầu bằng có trụ hình bánh xe, tướng luânbảo bình. Luật quy định, nếu dựng tháp thờ Phật thì phải có đầy đủ hình thức kể trên.Nếu dựng tháp cho Độc giác Phật thì không được an trí bảo bình. Nếu xây tháp cho vị A la hán thì tướng luân không được nhiều hơn 4 tầng. Nếu xây tháp cho vị chứng quả Bất Hoàn thì tướng luân không quáv 3 tầng. Nếu xây tháp cho vị chứng quả nhất lai, thì tướng luân không quá 2 tầng. Nếu xây tháp cho vị chứng quả Dự lưu thì tướng luân không quá 1 tầng.Nếu xây tháp cho người thiện trong phàm phu thì phải xây bằng trên đầu và không được dùng hình thức tướng luân. Kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 41 còn ghi rõ: Vị chuyển luân thánh vương (như vị nguyên thủ của một đại cường quốc) cũng được xây tháp, nhưng không được dùng tướng luân (tầng tháp hình lục giác hay bát giác), và chỉ xây bên ngoài khuôn viên chùa. Vì vị này tuy có phước đức lớn nhưng chưa đoạn trừ hết 3 độc tham, sân, si.

Nền của tháp theo thể thức Ấn Độ thời xưa thì phần lớn làm hình tròn. Nhưng Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam...thì thường dùng tứ giác hoặc bát giác để cấu trúc.Thân tháp càng về sau, càng biến thành nhiều tầng. Vào khoảng thế kỷ thứ 3, thứ tư có tháp 3 tầng xuất hiện, sau đó lại có 5 tầng, 7 tầng, 9 tầng, 13 tầng, 15 tầng, 17 tầng, thậm chí đến 37 tầng.Nhưng theo Tỳ nại da tạp sự quyển 18 (Đ.24, tr.291c) qui định thì số lượng các tầng tướng luân hoặc là 1,2,3,4 cho đến 13 tầng là tối đa. Tuy vậy, trên thực tế vẫn còn một số tháp nhiều tầng nổi tiếng, như tại chùa Tung Nhạc, núi Tung Sơn (Trung Quốc)có ngôi tháp gạch cao 15 tầng. Ở chùa Tiến Phúc, tại Tây An có ngôi tháp tiểu nhạn cao 15 tầng; và chùa Hương Tích, tại Tây An có ngôi tháp gạch cao 13 tầng

III. Chủng loại của tháp

Nếu căn cứ vào những vật được tôn trí trong tháp mà phân loại, thì chúng ta có: tháp xá lợi, tháp tóc, tháp móng, tháp răng, tháp y, tháp bát, tháp chân thân, tháp tro thân, tháp toái thân, tháp bình, tháp hải hội, tháp tam giới vạn linh, tháp nhất tự nhất thạch...

1. Tháp xá lợi: Tức là ngôi tháp được kiến tạo tôn trí xá lợi của Phật - những chất kết tinh sau khi nhục thân đã được trà tì.

2. Tháp tóc: Ngôi tháp lập ra để cúng dường tóc Phật.

3. Tháp móng: Ngôi tháp được xây dựng để cúng dường móng tay, móng chân của Phật. Hai vật này do trưởng giả Tu Đạt xin Phật đem về nhà xây tháp cúng dường.

4. Tháp răng: Ngôi tháp dùng để cúng dường răng của Phật.

5. Tháp chân thân: Tháp dùng để tôn trí chân thân (nhục thân) của cao tăng.

6. Tháp khôi thân: Tức ngôi tháp tàng trữ tro của bậc cao tăng sau khi đã hỏa thiêu.

7. Tháp toái thân: Tức ngôi tháp an trí một phần tro thân sau khi hỏa thiêu còn lại, như ngôi tháp Từ Ân ở gần đầm Nhật Nguyệt là ngôi tháp toái thân của Đại sư Huyền Trang.

8. Tháp phổ đồng: Còn gọi là tháp phổ thông, tháp hải hội; tức ngôi tháp tập trung di cốt của chúng tăng các nơi về tàng trữ vào một chỗ.

9. Tháp tam giới vạn linh: Tức ngôi tháp tập trung những di cốt của hạng người hữu duyên với Phật pháp.

10. Tháp mễ cốc: Ngôi tháp tàng trữ lúa thóc dùng để cầu nguyện cho ngũ cốc được mùa.

11. Tháp nhất tự nhất thạch: Cứ mỗi viên đá nhỏ khắc một chữ trong kinh Pháp Hoa, rồi chôn vào lòng đất, xây tháp lên trên để cúng dường.

Ngoài ra, kinh Quán Hư Không Tạng Bồ tát còn cho biết trên cung trời Đao Lợi có 4 ngôi tháp tôn trí 4 di vật của Đức Phật, thường gọi 4 tháp của Đế thích, đó là:

1) Tháp tóc;

2) Tháp y;

3) Tháp bát;

4) Tháp răng.

IV. Chất liệu dùng làm tháp

Phân tích về những chất liệu dùng làm tháp, ta có: tháp gỗ, tháp gạch, tháp đá, tháp bùn, tháp đất, tháp sắt, tháp đồng, tháp vàng, tháp bạc, tháp thủy tinh, tháp pha lê, tháp lưu ly, tháp ngọc, tháp châu báu và tháp hương.

1. Tháp gỗ: Tại Trung Quốc hiện còn ngôi tháp gỗ xưa nhất, đó là ngôi tháp Thích Ca tại chùa Phật Cung, huyện Ứng, tỉnh Sơn Tây, làm năm Thanh Ninh thứ 2 (năm1056) triều vua Liêu Đạo Tông, hình bát giác, gồm 5 tầng cao 115m, kiến trúc rất kiên cố. Năm Nguyên Thuận Đế, tại huyện Ứng bị động đất 7 ngày ngôi tháp này vẫn đứng yên bất động. Ngoài ra còn phải kể đến ngôi tháp do vua Ca Nị Sắc Ca kiến trúc và ngôi tháp ở chùa Vĩnh Ninh, thành Lạc Dương cũng đều là tháp gỗ.

2. Tháp gạch: Hiện nay các nước Thái Lan, Miến Điện, Lào, Việt Nam, Tây Tạng, những ngôi tháp hiện còn phần lớn là tháp bằng gạch. Tại chùa Tung Nhạc, Trung Quốc có ngôi tháp gạch 12 cạnh, cao 15 tầng, nền tháp rất cao, mái che trùng điệp, tráng lệ, hùng vĩ. Đây là một ngôi tháp kiến trúc rất nghệ thuật, cực kỳ giá trị.

3. Tháp đá: Tại Ấn Độ ngày xưa thường xây tháp bằng đá như ngôi Sơn Hà đại tháp. Ngoài ra, trong hang đá ở Vân Cương Trung Quốc hiện còn một số ngôi tháp bằng đá.

4. Tháp cát: Trong phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa cũng như kinh Luật Dị Tướng quyển 44 đều có đề cập đến cố sự "Đồng tử vun cát làm tháp".

5. Tháp đất: Trong Phẩm Phương Tiện kinh Pháp Hoa cũng có kể đến loại tháp làm bằng đất dùng để cúng dường Phật.

6. Tháp sắt: Sách Nhập Đường cầu pháp tuần lễ ký chép: Tháng 9 năm Lân Đức thứ 2 (năm 665) đời Đường Cao Tông, tại chùa Pháp Vân có tạo một ngôi tháp bằng sắt gồm 7 tầng, cao 1 trượng.

7. Tháp đồng: Ngô Việt Vương là Tiền Hoàng Thục noi gương vua A Dục ngày xưa, khoảng năm Hiển Đức thứ 2 (năm 955) cho đúc 84.000 cái tháp bằng đồng, cao chừng 2 tấc Tây, mọi người đều ngợi khen là rất đẹp.

8. Tháp vàng: Phẩm Phương Tiện trong kinh Pháp Hoa từng đề cập đến loại tháp này.

9. Tháp bạc: Loại tháp cũng giống như tháp vàng ở trên, tương đối cũng ít thấy. Theo sách Xuất Tam Tạng ký tập quyển 8 cho biết một người Bà la môn từng tạo một ngôi tháp bạc trong nhà, cao 3 trượng, rộng 8 thước.

10. Tháp thủy tinh: Nhật Bản, tại phường Phản Bản Thực Tạng có ngôi tháp thờ xá lợi bằng thủy tinh, được kiến trúc rất nghệ thuật; đó là quốc bảo của nước Nhật.

11. Tháp pha lê, xa cừ, mã não, lưu ly: Các loại tháp này cũng đều thấy có đề cập đến trong phẩm Phương Tiện và phẩm Bảo Tháp của kinh Pháp Hoa.

12. Tháp ngọc: Loại tháp này còn lại hiện nay rất ít. Năm Khang Hy thứ 49 (năm 1709) đời nhà Thanh, vua Thánh tổ từng sai thợ chuyên môn dùng 3 màu thạch ngọc vàng, xanh, trắng phối hợp điêu khắc một tòa tháp ngọc 8 tầng, cao độ 3 thước Tây, nghệ thuật điêu khắc rất tinh vi. Ngôi tháp này được xem như một thứ quốc bảo. Trải qua thế cuộc biến thiên, bảo vật này lưu lạc đến nước Mỹ và hiện nay nó được tàng trữ tại Đại học Áo Lập Cương.

13. Tháp hương: Tức dùng hương tán nhỏ hòa với nước mà nắn thành ngôi tháp nhỏ, cao chừng 1,2 tấc Tây trở lên, trong tháp tôn trí những bản kinh chép tay để lễ bái cúng dường, gọi là "Pháp xá lợi"

V. Mục đích của tháp:

Nếu phân tích về phương diện ý nghĩa, mục đích thì có: tháp kỳ phúc, tháp báo ân, tháp pháp thân và tháp thọ.

1. Tháp kỳ phúc: Các tín đồ Phật giáo xem việc tạo tháp là một công đức lớn, nên dựng tháp để cầu phúc.

2. Tháp báo ân: mục đích báo đáp ân đức của Phật mà xây tháp để thờ Phật, nên gọi là tháp báo ân.

3. Tháp pháp thân: Vì để an trí pháp thân xá lợi (những bản kinh quí được chép tay) nên tạo tháp.

4. Tháp thọ: Tức là bia, mộ của các cao tăng dự tạo lúc còn sống, giống như người đời xây sinh phần.

VI. Cách bài trí tháp:

Về cách bài trí tháp thì có các hình thức: tháp cô lập, tháp đối lập, tháp bài lập, tháp phương lập, tháp cũng lập, tháp phân lập v.v...

1. Tháp cô lập: Tức ngôi tháp đứng đơn độc một mình. Hình thức này phổ biến nhất.

2. Tháp đối lập: Như tại Trường An ở Thiểm Tây (Trung Quốc) có 2 ngôi tháp Đại Nhạn và Tiểu Nhạn đứng đối diện nhau.

3. Tháp bài lập: Như 3 ngôi tháp ở trong vườn chùa Gia Hòa ở tỉnh Chiết Giang, kiến tạo từ đời Đường và được tu bổ vào năm Quang Chử thứ 2 (năm 1876)

4. Tháp phương lập: Như tại thành Thẩm Dương ở Liễu Ninh có 4 ngôi tháp đứng ở 4 cửa thành.

5. Tháp cũng lập: Như 5 ngôi tháp ở chùa Ngũ Tháp ở ngoài cửa Tây của Bắc Bình.

6. Tháp phân lập: Như 7 ngôi tháp tại Kim Cương Bảo Tháp viện ở phía Tây Bắc Bình.

VII. Công đức tạo tháp

Các kinh điển cũng như các giáo huấn xưa nay đều nói rõ về công đức rất lớn của việc tạo tháp. Kinh Thí Dụ nêu ra 10 phước báo thù thắng của việc tạo tháp:

1. Không bị sinh vào những quốc độ biên địa.

2. Không bị nghèo khốn.

3. Không mang thân ngu si, tà kiến.

4. Có thể làm nguyên thủ những nước lớn.

5. Thọ mạng lâu dài.

6. Có thể được sức mạnh như lực sĩ Kim Cang Na La Diên.

7. Được phước đức to lớn không gì sánh bằng.

8. Được nương nhờ đức từ bi của chư Phật, Bồ tát.

9. Đầy đủ tam minh, lực thông, bát giải thoát.

10. Được vãng sinh Tịnh độ của 10 phương chư Phật.

VIII. Công đức nhiễu tháp

Kinh Đề Vị cũng nêu lên 5 công đức của sự nhiễu tháp như sau:

1. Đời sau được sắc đẹp, đoan chính.

2. Được âm thanh trong trẻo, êm dịu.

3. Được sinh lên cõi trời.

4. Được sinh vào nhà các vương hầu.

5. Đạt được đạo quả Niết bàn.

Khi nhiễu tháp phải đi theo chiều phía tay phải, và phải cúi đầu nhìn xuống đất, không được dẫm đạp những côn trùng nơi tháp, không được nhìn ngó 2 bên, không được khạc nhổ trên đất tháp, không được dừng lại nói chuyện với người khác. Không những tạo tháp, nhiễu tháp mới có công đức, mà sửa chữa tháp, quét tháp, lễ tháp v.v.. cũng đều có công đức rất lớn.

Trên đây, chúng tôi đã giới thiệu khái quát ý nghĩa, mục đích, diễn tiến hình thành ngôi tháp thờ Phật tại những quốc gia theo Phật giáo. Mặc dù sự giới thiệu này chưa đầy đủ, quí độc giả vẫn có thể mường tượng được hình ảnh ngôi tháp thờ Phật từ lúc bắt đầu xuất hiện cho đến ngày nay trên thế giới. Riêng tình hình tháp tại Việt Nam, chúng tôi sẽ trình bày trong một bài khác, để đáp ứng yêu cầu của những vị nào muốn tìm hiểu về lịch sử Phật giáo nước nhà.

* Ghi chú:

- Theo Phật Quang đại từ điển tr. 5421 - 5432. Lạc Dương già tam ký quyển 1;

- Đại Đường Tây Vức ký quyển 2;

- Lương cao tăng truyện quyển 1;

- Quảng Hoằng Minh tập quyển 15, 17; và một số tư liệu khác.

altalt

Bảo Tháp Nepal

altalt

Bảo Tháp Ấn Độ

alt

Bảo Tháp Tích Lan

altalt

Bảo Tháp Borobudur Trảo - Oa (Java)

altaltalt

Bảo Tháp Miến Điện

alt

Bảo Tháp Lào

alt

Bảo Tháp Thái Lan

altaltalt

Bảo Tháp Tây Tạng

altaltalt

Bảo Tháp Nhật Bản

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9641)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
(Xem: 23124)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
(Xem: 8114)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20521)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19534)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18407)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16272)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15949)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19063)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14312)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9629)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8723)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8221)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8920)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 10984)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9151)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8886)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 7965)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9099)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35639)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8562)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15100)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8716)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15304)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9188)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8850)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9362)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8458)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10303)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7667)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9544)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7520)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17234)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15023)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9513)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20909)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9222)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7180)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17726)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17640)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25836)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7836)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9930)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7275)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9657)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8151)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9125)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7424)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8795)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7942)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8367)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7552)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8741)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8172)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8902)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7303)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 14017)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7117)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
(Xem: 10373)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
(Xem: 7700)
Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant