Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tháp: ý nghĩacông dụng

15 Tháng Chín 201000:00(Xem: 21414)
Tháp: ý nghĩa và công dụng
altTiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn, lăng mộ, linh miếu v.v..

Ban đầu sthùpa dùng để chỉ cho những chỗ được kiến tạo để thờ xá lợi của Phật, nhưng về sau nó được dùng lẫn lộn với chi đề (cetiya - điện thờ). Ma ha tăng kỳ luật quyển 33, và Pháp Hoa nghĩa sớ quyển 11 quy định rõ: Phàm nơi nào có xá lợi của Phật thì gọi là tháp, không có xá lợi của Phật thì gọi là chi đề. Căn cứ vào đây thì 8 ngôi tháp tôn trí xá lợi của Phật tại Câu Thi Na, Ma Kiệt Đà v.v.. mới đích thực là sthùpa (tháp). Ngoài ra, các ngôi tháp nơi Phật đản sinh tại thành Ca Ti La Vệ, ngôi tháp chỗ Phật thành đạo dưới gốc cây bồ đề, ngôi tháp chỗ Phật chuyển pháp luân tại vườn Lộc Uyển, ngôi tháp chỗ Phật hiện thần thông tại tinh xá Kỳ Viên, ngôi tháp có 3 cấp báu bên thành Khúc Nữ, ngôi tháp chỗ để kinh Đại thừa trong núi Kỳ Xà Quật, ngôi tháp tại rừng Am La Vệ, nơi Duy Ma Cật thị hiện bệnh, ngôi tháp chỗ Phật Niết bàn trong rừng Sala, (8 linh tháp lớn này) đều thuộc về chi đề. Nguyên uỷ về việc tạo tháp bắt đầu từ thời Đức Phật, Thập tụng luật quyển 56 chép: Trưởng giả Tu Đạt từng xin tóc và móng tay của Phật về xây tháp để cúng dường. Ngoài ra, Ma ha tăng kỳ luật, quyển 33 chép: Vua Ba Tư Nặc noi gương Phật, kiến tạo tháp Phật Ca Diếp để lễ bái, cúng dường hằng ngày.

Sau khi Phật nhập diệt, Bà la môn Hương Tánh chia xá lợi của Phật cho 8 nước; rồi các vị quốc vương rước xá lợi ấy về nước xây tháp cúng dường. Đó là lịch sử xây tháp đầu tiên sau khi Phật Niết bàn. Ngoài ra, theo A Dục vương truyện quyển 1 và Thiện kiến luật Tì bà sa quyển 1 đều chép rằng: khoảng 200 năm sau Phật nhập diệt, vua A Dục trị vì nước Ma Kiệt Đà đã xây 84.000 ngôi bảo tháp trong vương quốc của mình.

I. Vài ngôi tháp tiêu biểu tại những nước Phật giáo

Nếu căn cứ vào ý nghĩa rộng rãi của tháp mà nói thì các nơi trên thế giới đã từng kiến tạo tháp rất nhiều. Chúng ta có thể kể đến một số ngôi tiêu biểu tại những nơi theo Phật giáo như sau:

1. Ấn Độ: Tại Ba Hách Đặc (Bharhut) có một ngôi tháp di tích, thân tháp đã huỷ hoại hết, nhưng còn nền tháp và những tảng đá. Thời gian xây tháp này khoảng 200 năm trước Tây lịch.

- Ngôi tháp tại Bồ Đề Đạo Tràng kiến tạo khoảng 100 năm trước Tây lịch.

- Tháp thờ tại động A Chiên Đa (Ajanta) và tại hang Na Tây Khắc (Nàsik).

Vua Ca Nị Sắc Ca (kaniska) nước Kiền Đà La thuộc Bắc Ấn Độ xây một ngôi tháp cao 32m dưới núi Tuyết Sơn, khoảng thế kỷ thứ nhất Tây lịch. Đồng thời nhà vua cũng xây một ngôi tháp khác, gồm 13 tầng cao hơn 200m, mà theo sách Lạch Dương Già ký quyển 5 thì đây là ngôi tháp đặc sắc nhất trong những ngôi tháp tại Tây Vức...

2.Tích Lan (SriLanka): Vua Thiên Ái Đế Tu (Devànampiya Tissa) đã kiến tạo một số ngôi tháp tại Tháp Viên (Thùpàràma). Đó là những ngôi tháp xuất hiện sớm nhất trên Tích Lan. Ngoài ra, trên núi Vô úy (Abhayagiri) có một ngôi tháp cao 120m, kiến tạo vào thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch. Đây là một trong những ngôi tháp cổ rất nổi tiếng tại Tích Lan.

3. Miến Điện (Myanmar): Nước này có tháp Phật Đoan Đức Cung (Shwedagon) tại Ngưỡng Quang (Rangoon) cao 118m; tháp Tu Mã Đổ (S'emaudau) tại Tí Cổ (pegu) cao 102m. Toàn bộ mặt ngoài của tháp đều được thếp vàng và có 10 ngôi tháp nhỏ ở xung quanh.

4. Thái Lan: Tại cố đô Du Địa Á (Ayuthia) còn lưu lại không ít những ngôi tháp Phật cổ xưa. Ngoài ra, tại Băng Cốc (Bangkok) còn có tháp Phỉ Lạp thác mỗ ma yết đề (Phra - Thomma - Chedi) cao 125m, và ngôi tháp Thanh Tự (Wat Ching) đều là những ngôi tháp nổi tiếng thế giới.

5. Lào: Nước Lào có tháp Duy Ân Thường (Chom - Vien chang), tháp Khoa Ma Nghinh (Chom - yong), đều là những ngôi tháp cổ trọng yếu hiện còn.

6. Trảo - Oa (Java): Nơi đây có Bà La phù đồ (Borobudur) là một ngôi tháp quy mô, bề thế; nền tháp hình tứ giác, chính giữa là một ngôi tháp lớn đứng thẳng lên tới đỉnh, và chu vi thân tháp gồm có 72 ngôi tháp nhỏ. Trong mỗi ngôi tháp nhỏ đều đặt tượng phật, toàn bộ kiến trúc có nhiều tầng cấp, hình dáng tương tự kim tự tháp. Chiều dài, chiều rộnh mỗi bên 123m, và chiều cao 42m. Đó là thánh địa Phật giáo Đaị thừa hiện còn, rất to lớn và rất trang nghiêm.

7. Ni Bạt Nhĩ (Nepal): Xứ này có tháp Ô nhã mỗ bố na đức (Snuyambhunàth) tại Gia Đức Mãn Đô (Katmandu) rất lớn, hình dạng như cái bát úp, ở trên có 10 tầng tướng luân, đỉnh tháp để thiên cái (lọng báu).

8. Tây Tạng: Tháp ở Tây Tạng thường được gọi là Lạt ma tháp, và đa số tháp ở đây đều có hình dáng nhỏ.

9. Trung Quốc: Tại Trung Quốc, thời đại tạo tháp được ghi nhận sớm nhất là thời Tam Quốc. Tương quyền vào năm Xích Ô thứ 3 (năm 240), vua Đông Ngô là Tôn Quyền sai Khương Tăng Hội đã chí thành cầu nguyện, cảm được xá lợi xuất hiện. Do đó, nhà vua rất thán phục, cho xây tháp để cúng dường, gọi nơi này là chùa Kiến Sơ. Thế nhưng, theo Phật Tổ thống kỷ quyển 54 thì ngôi tháp tại chùa Bạch Mã được xây vào năm Vĩnh Bình thứ 10 (năm 67) đời vua Hán Minh Đế, mới là ngôi tháp sớm nhất của Trung Quốc. Về sau, sự tích các triều đại xây tháp vẫn còn tiếp tục. Vào năm Thái Khang thứ 2 (năm 281), đời vua Võ Đế nhà Tây Tấn, Huệ Đạt ở huyện mậu, tỉnh Chiết Giang trông thấy một bảo tháp từ dưới đất hiện lên, cao độ 45m, rộng khoảng 22m. Do thế, ông bèn xây tháp tại ấy. Năm Huy Bình nguyên niên (năm 516) đời Bắc Ngụy, Linh thái hậu là Hồ thị sai thợ thiền nghệ kiến trúc một ngôi tháp gỗ tại chùa Vĩnh Ninh, Lạc Dương, gồm 9 tầng, cao 320m, đứng cách xa một trăm dặm vẫn có thể trông thấy. Nhưng đáng tiếc là ngày nay ngôi tháp này không còn.Vào đời nhà Tùy, vua Tùy Dạng Đế đã vì Đại sư Trí Khải mà xây một ngôi bảo tháp bằng gạch tại chùa Quốc Thanh, núi Thiên Thai. Ngôi tháp này hình lục giác, gồm 4 tầng, cao độ 74m. Vua Đường Thái Tông cũng từng theo lời thỉnh cầu của Đường Tam Tạng Huyền Trang mà xây một ngôi tháp gạch tại chùa Từ Ân, Tây An, cao 58m.

10. Nhật Bản: Vào tháng 2 năm Kính Đạt Thiên hoàng thứ 14 (mă, 585) viên quan đại thần Tô Ngã Mã Tử tạo một ngôi tháp ở phía Bắc Đại Dã Khâu. Ở trên đầu chóp tháp tôn trí ngọc xá lợi mà ông đã thỉnh được. Đến năm Suy Cổ Thiên hoàng thứ 15 (năm 606), Thánh Đức thái tử tạo một ngôi tháp 5 tầng tại chùa Pháp Long, đến nay vẫn còn. Đây là ngôi tháp gỗ cổ nhất thế giới.

II. Hình dáng của tháp:

Về chủng loại của tháp rất phong phú, nếu dùng hình dáng để phân loại thì ta có:tháp phú bát, tháp khám, tháp trụ, tháp nhạn, tháp lộ, tháp ốc, tháp vô bích, , tháp Lạt ma, tháp nhiều tầng, tháp vuông, tháp tròn, tháp hình lục giác, tháp hình bát giác, tháp đại, tháp đa bảo, tháp du kỳ, tháp Ngũ luân, tháp hình trứng, tháp vô phùng, tháp lâu các, tháp mật diêm, tháp kim cương bảo tòa, tháp mộ...

Trong các hình thức của tháp thì hình thức tháp phú bát (bát úp) là xưa nhất. Theo luật Ma ha tăng kỳ quyển 33, và hữu bộ tùy nại da tạp sự quyển 18 thì tháp phú bát gồm có các bộ phận sau đây cấu thành: thân tháp hình bát úp, đầu bằng có trụ hình bánh xe, tướng luânbảo bình. Luật quy định, nếu dựng tháp thờ Phật thì phải có đầy đủ hình thức kể trên.Nếu dựng tháp cho Độc giác Phật thì không được an trí bảo bình. Nếu xây tháp cho vị A la hán thì tướng luân không được nhiều hơn 4 tầng. Nếu xây tháp cho vị chứng quả Bất Hoàn thì tướng luân không quáv 3 tầng. Nếu xây tháp cho vị chứng quả nhất lai, thì tướng luân không quá 2 tầng. Nếu xây tháp cho vị chứng quả Dự lưu thì tướng luân không quá 1 tầng.Nếu xây tháp cho người thiện trong phàm phu thì phải xây bằng trên đầu và không được dùng hình thức tướng luân. Kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 41 còn ghi rõ: Vị chuyển luân thánh vương (như vị nguyên thủ của một đại cường quốc) cũng được xây tháp, nhưng không được dùng tướng luân (tầng tháp hình lục giác hay bát giác), và chỉ xây bên ngoài khuôn viên chùa. Vì vị này tuy có phước đức lớn nhưng chưa đoạn trừ hết 3 độc tham, sân, si.

Nền của tháp theo thể thức Ấn Độ thời xưa thì phần lớn làm hình tròn. Nhưng Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam...thì thường dùng tứ giác hoặc bát giác để cấu trúc.Thân tháp càng về sau, càng biến thành nhiều tầng. Vào khoảng thế kỷ thứ 3, thứ tư có tháp 3 tầng xuất hiện, sau đó lại có 5 tầng, 7 tầng, 9 tầng, 13 tầng, 15 tầng, 17 tầng, thậm chí đến 37 tầng.Nhưng theo Tỳ nại da tạp sự quyển 18 (Đ.24, tr.291c) qui định thì số lượng các tầng tướng luân hoặc là 1,2,3,4 cho đến 13 tầng là tối đa. Tuy vậy, trên thực tế vẫn còn một số tháp nhiều tầng nổi tiếng, như tại chùa Tung Nhạc, núi Tung Sơn (Trung Quốc)có ngôi tháp gạch cao 15 tầng. Ở chùa Tiến Phúc, tại Tây An có ngôi tháp tiểu nhạn cao 15 tầng; và chùa Hương Tích, tại Tây An có ngôi tháp gạch cao 13 tầng

III. Chủng loại của tháp

Nếu căn cứ vào những vật được tôn trí trong tháp mà phân loại, thì chúng ta có: tháp xá lợi, tháp tóc, tháp móng, tháp răng, tháp y, tháp bát, tháp chân thân, tháp tro thân, tháp toái thân, tháp bình, tháp hải hội, tháp tam giới vạn linh, tháp nhất tự nhất thạch...

1. Tháp xá lợi: Tức là ngôi tháp được kiến tạo tôn trí xá lợi của Phật - những chất kết tinh sau khi nhục thân đã được trà tì.

2. Tháp tóc: Ngôi tháp lập ra để cúng dường tóc Phật.

3. Tháp móng: Ngôi tháp được xây dựng để cúng dường móng tay, móng chân của Phật. Hai vật này do trưởng giả Tu Đạt xin Phật đem về nhà xây tháp cúng dường.

4. Tháp răng: Ngôi tháp dùng để cúng dường răng của Phật.

5. Tháp chân thân: Tháp dùng để tôn trí chân thân (nhục thân) của cao tăng.

6. Tháp khôi thân: Tức ngôi tháp tàng trữ tro của bậc cao tăng sau khi đã hỏa thiêu.

7. Tháp toái thân: Tức ngôi tháp an trí một phần tro thân sau khi hỏa thiêu còn lại, như ngôi tháp Từ Ân ở gần đầm Nhật Nguyệt là ngôi tháp toái thân của Đại sư Huyền Trang.

8. Tháp phổ đồng: Còn gọi là tháp phổ thông, tháp hải hội; tức ngôi tháp tập trung di cốt của chúng tăng các nơi về tàng trữ vào một chỗ.

9. Tháp tam giới vạn linh: Tức ngôi tháp tập trung những di cốt của hạng người hữu duyên với Phật pháp.

10. Tháp mễ cốc: Ngôi tháp tàng trữ lúa thóc dùng để cầu nguyện cho ngũ cốc được mùa.

11. Tháp nhất tự nhất thạch: Cứ mỗi viên đá nhỏ khắc một chữ trong kinh Pháp Hoa, rồi chôn vào lòng đất, xây tháp lên trên để cúng dường.

Ngoài ra, kinh Quán Hư Không Tạng Bồ tát còn cho biết trên cung trời Đao Lợi có 4 ngôi tháp tôn trí 4 di vật của Đức Phật, thường gọi 4 tháp của Đế thích, đó là:

1) Tháp tóc;

2) Tháp y;

3) Tháp bát;

4) Tháp răng.

IV. Chất liệu dùng làm tháp

Phân tích về những chất liệu dùng làm tháp, ta có: tháp gỗ, tháp gạch, tháp đá, tháp bùn, tháp đất, tháp sắt, tháp đồng, tháp vàng, tháp bạc, tháp thủy tinh, tháp pha lê, tháp lưu ly, tháp ngọc, tháp châu báu và tháp hương.

1. Tháp gỗ: Tại Trung Quốc hiện còn ngôi tháp gỗ xưa nhất, đó là ngôi tháp Thích Ca tại chùa Phật Cung, huyện Ứng, tỉnh Sơn Tây, làm năm Thanh Ninh thứ 2 (năm1056) triều vua Liêu Đạo Tông, hình bát giác, gồm 5 tầng cao 115m, kiến trúc rất kiên cố. Năm Nguyên Thuận Đế, tại huyện Ứng bị động đất 7 ngày ngôi tháp này vẫn đứng yên bất động. Ngoài ra còn phải kể đến ngôi tháp do vua Ca Nị Sắc Ca kiến trúc và ngôi tháp ở chùa Vĩnh Ninh, thành Lạc Dương cũng đều là tháp gỗ.

2. Tháp gạch: Hiện nay các nước Thái Lan, Miến Điện, Lào, Việt Nam, Tây Tạng, những ngôi tháp hiện còn phần lớn là tháp bằng gạch. Tại chùa Tung Nhạc, Trung Quốc có ngôi tháp gạch 12 cạnh, cao 15 tầng, nền tháp rất cao, mái che trùng điệp, tráng lệ, hùng vĩ. Đây là một ngôi tháp kiến trúc rất nghệ thuật, cực kỳ giá trị.

3. Tháp đá: Tại Ấn Độ ngày xưa thường xây tháp bằng đá như ngôi Sơn Hà đại tháp. Ngoài ra, trong hang đá ở Vân Cương Trung Quốc hiện còn một số ngôi tháp bằng đá.

4. Tháp cát: Trong phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa cũng như kinh Luật Dị Tướng quyển 44 đều có đề cập đến cố sự "Đồng tử vun cát làm tháp".

5. Tháp đất: Trong Phẩm Phương Tiện kinh Pháp Hoa cũng có kể đến loại tháp làm bằng đất dùng để cúng dường Phật.

6. Tháp sắt: Sách Nhập Đường cầu pháp tuần lễ ký chép: Tháng 9 năm Lân Đức thứ 2 (năm 665) đời Đường Cao Tông, tại chùa Pháp Vân có tạo một ngôi tháp bằng sắt gồm 7 tầng, cao 1 trượng.

7. Tháp đồng: Ngô Việt Vương là Tiền Hoàng Thục noi gương vua A Dục ngày xưa, khoảng năm Hiển Đức thứ 2 (năm 955) cho đúc 84.000 cái tháp bằng đồng, cao chừng 2 tấc Tây, mọi người đều ngợi khen là rất đẹp.

8. Tháp vàng: Phẩm Phương Tiện trong kinh Pháp Hoa từng đề cập đến loại tháp này.

9. Tháp bạc: Loại tháp cũng giống như tháp vàng ở trên, tương đối cũng ít thấy. Theo sách Xuất Tam Tạng ký tập quyển 8 cho biết một người Bà la môn từng tạo một ngôi tháp bạc trong nhà, cao 3 trượng, rộng 8 thước.

10. Tháp thủy tinh: Nhật Bản, tại phường Phản Bản Thực Tạng có ngôi tháp thờ xá lợi bằng thủy tinh, được kiến trúc rất nghệ thuật; đó là quốc bảo của nước Nhật.

11. Tháp pha lê, xa cừ, mã não, lưu ly: Các loại tháp này cũng đều thấy có đề cập đến trong phẩm Phương Tiện và phẩm Bảo Tháp của kinh Pháp Hoa.

12. Tháp ngọc: Loại tháp này còn lại hiện nay rất ít. Năm Khang Hy thứ 49 (năm 1709) đời nhà Thanh, vua Thánh tổ từng sai thợ chuyên môn dùng 3 màu thạch ngọc vàng, xanh, trắng phối hợp điêu khắc một tòa tháp ngọc 8 tầng, cao độ 3 thước Tây, nghệ thuật điêu khắc rất tinh vi. Ngôi tháp này được xem như một thứ quốc bảo. Trải qua thế cuộc biến thiên, bảo vật này lưu lạc đến nước Mỹ và hiện nay nó được tàng trữ tại Đại học Áo Lập Cương.

13. Tháp hương: Tức dùng hương tán nhỏ hòa với nước mà nắn thành ngôi tháp nhỏ, cao chừng 1,2 tấc Tây trở lên, trong tháp tôn trí những bản kinh chép tay để lễ bái cúng dường, gọi là "Pháp xá lợi"

V. Mục đích của tháp:

Nếu phân tích về phương diện ý nghĩa, mục đích thì có: tháp kỳ phúc, tháp báo ân, tháp pháp thân và tháp thọ.

1. Tháp kỳ phúc: Các tín đồ Phật giáo xem việc tạo tháp là một công đức lớn, nên dựng tháp để cầu phúc.

2. Tháp báo ân: mục đích báo đáp ân đức của Phật mà xây tháp để thờ Phật, nên gọi là tháp báo ân.

3. Tháp pháp thân: Vì để an trí pháp thân xá lợi (những bản kinh quí được chép tay) nên tạo tháp.

4. Tháp thọ: Tức là bia, mộ của các cao tăng dự tạo lúc còn sống, giống như người đời xây sinh phần.

VI. Cách bài trí tháp:

Về cách bài trí tháp thì có các hình thức: tháp cô lập, tháp đối lập, tháp bài lập, tháp phương lập, tháp cũng lập, tháp phân lập v.v...

1. Tháp cô lập: Tức ngôi tháp đứng đơn độc một mình. Hình thức này phổ biến nhất.

2. Tháp đối lập: Như tại Trường An ở Thiểm Tây (Trung Quốc) có 2 ngôi tháp Đại Nhạn và Tiểu Nhạn đứng đối diện nhau.

3. Tháp bài lập: Như 3 ngôi tháp ở trong vườn chùa Gia Hòa ở tỉnh Chiết Giang, kiến tạo từ đời Đường và được tu bổ vào năm Quang Chử thứ 2 (năm 1876)

4. Tháp phương lập: Như tại thành Thẩm Dương ở Liễu Ninh có 4 ngôi tháp đứng ở 4 cửa thành.

5. Tháp cũng lập: Như 5 ngôi tháp ở chùa Ngũ Tháp ở ngoài cửa Tây của Bắc Bình.

6. Tháp phân lập: Như 7 ngôi tháp tại Kim Cương Bảo Tháp viện ở phía Tây Bắc Bình.

VII. Công đức tạo tháp

Các kinh điển cũng như các giáo huấn xưa nay đều nói rõ về công đức rất lớn của việc tạo tháp. Kinh Thí Dụ nêu ra 10 phước báo thù thắng của việc tạo tháp:

1. Không bị sinh vào những quốc độ biên địa.

2. Không bị nghèo khốn.

3. Không mang thân ngu si, tà kiến.

4. Có thể làm nguyên thủ những nước lớn.

5. Thọ mạng lâu dài.

6. Có thể được sức mạnh như lực sĩ Kim Cang Na La Diên.

7. Được phước đức to lớn không gì sánh bằng.

8. Được nương nhờ đức từ bi của chư Phật, Bồ tát.

9. Đầy đủ tam minh, lực thông, bát giải thoát.

10. Được vãng sinh Tịnh độ của 10 phương chư Phật.

VIII. Công đức nhiễu tháp

Kinh Đề Vị cũng nêu lên 5 công đức của sự nhiễu tháp như sau:

1. Đời sau được sắc đẹp, đoan chính.

2. Được âm thanh trong trẻo, êm dịu.

3. Được sinh lên cõi trời.

4. Được sinh vào nhà các vương hầu.

5. Đạt được đạo quả Niết bàn.

Khi nhiễu tháp phải đi theo chiều phía tay phải, và phải cúi đầu nhìn xuống đất, không được dẫm đạp những côn trùng nơi tháp, không được nhìn ngó 2 bên, không được khạc nhổ trên đất tháp, không được dừng lại nói chuyện với người khác. Không những tạo tháp, nhiễu tháp mới có công đức, mà sửa chữa tháp, quét tháp, lễ tháp v.v.. cũng đều có công đức rất lớn.

Trên đây, chúng tôi đã giới thiệu khái quát ý nghĩa, mục đích, diễn tiến hình thành ngôi tháp thờ Phật tại những quốc gia theo Phật giáo. Mặc dù sự giới thiệu này chưa đầy đủ, quí độc giả vẫn có thể mường tượng được hình ảnh ngôi tháp thờ Phật từ lúc bắt đầu xuất hiện cho đến ngày nay trên thế giới. Riêng tình hình tháp tại Việt Nam, chúng tôi sẽ trình bày trong một bài khác, để đáp ứng yêu cầu của những vị nào muốn tìm hiểu về lịch sử Phật giáo nước nhà.

* Ghi chú:

- Theo Phật Quang đại từ điển tr. 5421 - 5432. Lạc Dương già tam ký quyển 1;

- Đại Đường Tây Vức ký quyển 2;

- Lương cao tăng truyện quyển 1;

- Quảng Hoằng Minh tập quyển 15, 17; và một số tư liệu khác.

altalt

Bảo Tháp Nepal

altalt

Bảo Tháp Ấn Độ

alt

Bảo Tháp Tích Lan

altalt

Bảo Tháp Borobudur Trảo - Oa (Java)

altaltalt

Bảo Tháp Miến Điện

alt

Bảo Tháp Lào

alt

Bảo Tháp Thái Lan

altaltalt

Bảo Tháp Tây Tạng

altaltalt

Bảo Tháp Nhật Bản

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8518)
Trong một quyển sách nhỏ «Phật Giáo Nhập Môn» tác giả Fabrice Midal đã dành riêng một chương để tóm lược thật ngắn gọn một số các khái niệm căn bản...
(Xem: 10104)
Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương.
(Xem: 18502)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 14500)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 8795)
Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo...
(Xem: 8897)
Phẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi tức là không, cũng là giả danh về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo.
(Xem: 8193)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận và Du-già hành tông hay trường phái Duy thức...
(Xem: 8987)
Không là pháp quán chung của Phật giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của các tông phái khác.
(Xem: 14143)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 8435)
Niệm tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm...
(Xem: 15254)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13113)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 7794)
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc..."
(Xem: 16615)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15482)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 8974)
Chấp nhận một hình thức Phật giáo rồi dấn thân bằng thực nghiệm, hành giả không cần phải dành quá nhiều công sức cho những vấn đề lý thuyết và những mục tiêu lý tưởng của các truyền thống khác nhau.
(Xem: 7920)
Pháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc?
(Xem: 7083)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị".
(Xem: 11245)
Đạo Phậtđạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.
(Xem: 14235)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10440)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20436)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 8766)
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ"
(Xem: 9254)
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành...
(Xem: 24075)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12615)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 7790)
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng.
(Xem: 16205)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 15561)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 8717)
Indriya có nghĩa là căn, gốc, khả năng, làm chủ, cốt yếu... Bala là lực, là sức mạnh. Vậy ngũ căn là 5 trạng thái tâm căn bản, 5 yếu tố tâm lý căn bản có khả năng kiểm soát tâm, làm chủ tâm.
(Xem: 7627)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội.
(Xem: 14590)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 9275)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu.
(Xem: 15465)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 15116)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16594)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 13438)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 15294)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 7810)
Tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành ra nước trà.
(Xem: 7478)
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễchúng ta đang thực hiện ngày hôm nay, Ngài cũng không vì vấn đề nghi thứcnghi lễ mà khuyến khích dân chúng...
(Xem: 7328)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu.
(Xem: 8993)
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật GiáoChánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương."
(Xem: 13997)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 8005)
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của Phật giáo...
(Xem: 7833)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn...
(Xem: 15774)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10252)
Chúng ta luôn bị bất an, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sinh mạng, quyền lợi, địa vị, vợ con, tiếng tăm, của cải… của mình bị thương tổn hay bị đe dọa.
(Xem: 7674)
Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
(Xem: 7481)
Trung-quán-luận hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để giảng Giáo lý của đức Phật.
(Xem: 12756)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 7836)
Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời.
(Xem: 8079)
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến ngày nay.
(Xem: 13964)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 7267)
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS / WHO) định nghĩa sức khoẻ là một "thể dạng an vui toàn diện, từ thể xác đến tâm thần và cả cuộc sống trong xã hội
(Xem: 9171)
Trong Thiện kiến tì-bà-sa cũng có thuyết này, nhưng vì độ người nữ xuất gia nên tổn chính pháp năm trăm năm.
(Xem: 9633)
“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ.
(Xem: 13068)
Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người.
(Xem: 7566)
Nếu không có ngã, sự liên quan giữa một hành nghiệp và kết quả của nó là điều không thể có, vì nếu tác giả của một hành nghiệp chết, ai sẽ có kết quả?
(Xem: 10115)
Chúng ta lễ lạy để tịnh hóa mọi tình huống trong quá khứ khi ta không kính trọng người khác... Nguyên tác: Lạt Ma Gendyn Rinpoche; Liên Hoa dịch Việt
(Xem: 7177)
Sau khi Đức Phật diệt độ, Tôn giả Maha Kassapa đã triệu tập 500 vị A-la-hán vân tập tại thành Rājagaha để kiết tập kinh điển... Chúc Phú
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant