Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những giá trị sống trong một viễn cảnh Phật giáo

20 Tháng Chín 201000:00(Xem: 14285)
Những giá trị sống trong một viễn cảnh Phật giáo
Xã hội hôm nay đã được cải thiện rất nhiều về phương diện vật chất, nhưng những giá trị hạnh phúc của con người thì không theo đó mà thăng tiến. Đời sống xã hội hiện tại đang phải đối mặt với nhiều vấn nạn về đạo đức, môi trường sinh thái… và đang rất cần một giải pháp.

Trong truyền thống dân tộc, với lịch sử gắn bó lâu đời, đạo Phật sẽ giới thiệu hướng đi nào trong việc thiết định các giá trị sống phù hợp với hôm nay?

Một xã hội quan niệm giá trị sống như thế nào sẽ được định hình và tiến bộ theo những giá trị đó. Chúng ta thấy rằng nhiều xã hội trong thế kỷ XX quan niệm giá trị sống là sự thành công về mặt vật chất, hưởng thụ được nhiều về mặt vật chất, và do đó định hình thành cái mà chúng ta đã từng gọi là xã hội tiêu thụ với sự nảy sinh của các cuộc khủng hoảng đạo đức, môi sinh, xã hội…

Trong khi đó, khoa học tự nhiên lại không liên hệ gì đến vấn đề này. Ý kiến của nhà khoa học và cũng là nhà sư Phật giáo Matthieu Ricard trong cuộc đối thoại với GS. Trịnh Xuân Thuận: “Thế nhưng các ngành khoa học tự nhiên lại tỏ ra bất lực không giải đáp được những cơ bản của nhân sinh. Sự bất lực cũng không có gì đáng trách, bởi lẽ những ngành khoa học đó không bao giờ đề ra mục đích giúp chúng ta tìm kiếm hạnh phúc hay tạo ra hòa bình xung quanh chúng ta. Các ngành khoa học cơ bản của khoa học tự nhiên chỉ có mục đích mô tảtìm hiểu tự nhiên.

Tuy ý định đó là đáng khen, thế nhưng ngiên cứu hóa học các vì sao hay phân loại côn trùng không thể có ý nghĩa quan trọng bằng những vấn đề cơ bản nhất của nhân sinh. Nếu chúng ta xét những giây phút có ý nghĩa nhất của đời mình, thì chúng ta phải nói tới tình yêu, tình bạn, tình thương, niềm vui của sự sống, vẻ đẹp của thiên nhiên, niềm vui nội tâm, tình thương đồng loại…Nói chung khoa học không có tiếng nói trong những vấn đề như vậy”. (NSGN số 72)

Chúng ta cũng biết Đức Phật, một con người đã trở thành hoàn hảo, toàn thiệntoàn diện, một con người trọn vẹn Bi Trí Dũng. Như thế Ngài đã thành tựu những giá trị sống là hạnh phúc, bình an, trí tuệ, từ bi, trong sạch, vĩnh viễn hết khổ, không sợ hãi, sống vì hạnh phúc cho mọi người… mà trong kinh điển nói là muôn hạnh muôn đức.

Chỉ lấy một đoạn trong phẩm Bồ Tát hạnh của kinh Duy Ma Cật, nói về ‘Bồ tát (người hướng đến sự toàn thiệntoàn diện của chính mình và những người khác) chẳng hết hữu vi’.

Đoạn kinh ấy nêu ra những phẩm tính, hay những đức hạnh, hay những giá trị sống của một con người tiến bộ đến chỗ hoàn hảo: “Không rời đại từ, không bỏ đại bi, phát khởi tâm sâu xa không hề xao lãng, trí tuệ rốt ráo, giáo hóa không bao giờ biết mỏi mệt, thường nhớ và làm theo bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, không tiếc tánh mạng mà giữ gìn chánh pháp, tâm trí an trụ thường hướng về người khác, không biếng nhác, không keo kiệt, nỗ lực phụng sự, không sợ hãi, với vinh nhục không mừng lo, không khinh người, kính trọng nguời, cứu vớt bảo bọc những người yếu đuối, thực hành những điều lành không có giới hạn, lấy những sự trang nghiêm của cõi Tịnh độ mà xây dựng cho cõi nước mình; bố thí vô hạn; trừ bỏ mọi cái xấu và làm sạch thân khẩu ý; sanh tử vô số kiếp mà ý chí dũng liệt; gánh vác chúng sinh làm cho vĩnh viễn giải thoát; đại tinh tấn; ít ham muốn biết vừa đủ mà chẳng bỏ việc đời; dẫn dắt người khác; từ bi hỷ xả…”

Chúng ta có thể nói rằng ở đời này, có bao nhiêu lý tưởng sống, bao nhiêu gia trị sống, bao nhiêu đức tính cho một con người hoàn hảo thì chúng ta đều được tìm thấy trong những giáo lýĐức Phật đã dạy. Và những giá trị sống ấy đã trải quatồn tại trong làn sóng văn minh nông nghiệp thứ nhất thời Đức Phật, đến làn sóng văn minh công nghiệp thứ hai, và bây giờ là làn sóng văn minh hậu công nghiệp thứ ba, với sự kiệnhiện giờ người dân Âu – Mỹ càng ngày càng tìm đến Phật giáo như một giải pháp cho cuộc đời hiện đại của họ.

Nhưng những giá trị sống, hay những đức tính của một con người đang tiến bộ đến chỗ tự hoàn thiện, đặt căn bản trên quy luật khách quan nào không và đem lại những kết quả ra sao ?

Thứ nhất, theo đạo Phật, những giá trị sống ấy đặt căn bản trên định luật nhân quả, nghĩa là nếu chúng ta sống theo những giá trị sống ấy thì chúng không mất đi, không vô cớ biến thành ra một cái khác vô bổ và chúng có kết quả trên toàn bộ con người của chúng ta (cả hai mặt thân và tâm). Chẳng hạn chúng ta gieo trồng một lý tưởng sống là bố thí, hiến tặng, chia sẻ thì nó không thể có kết quả ngược lại về mặt thân là chúng ta sẽ chịu kết quả nghèo túng và về mặt tâm là chúng ta càng trở nên keo kiệt.

Hoặc chúng ta thực hành để loại trừ tính khí nóng giận của mình mà nó lại ra kết quả ngược lại là càng ngày càng nóng giận hơn, chỉ trừ thực hành sai! Nếu chúng ta sống theo không sát hại, bất bạo động thì theo định luật nhân quả, về thân chúng ta có thêm thọ mạng, về tâm chúng ta có thêm từ bi, và không thể ngược lại. Như vậy, chính định luật nhân quả làm cho một giá trị sống thành ra giá trị, vì nó không thể đưa đến cái khác được, không thể thành ra cái không giá trị.

Thứ hai, do định luật nhân quả mà những giá trị sống phải đưa đến kết quả là hạnh phúc của cả thân và tâm, phải đưa người ta tiến lên cao mà không phải đưa người ta xuống thấp, như xuống mức sống thú vật chẳng hạn. Làm một hành động như bố thí, về thân chúng ta sẽ được hạnh phúc là không thiếu thốn, về tâm là lòng chúng ta có niềm vui, bao la, rộng mở.

Đứng về mặt tâm mà nói, ngay khi chúng ta cho cái gì, chúng ta thọ hưởng ngay niềm vui, hạnh phúc. Khi chúng ta cho đi một tấm lòng tốt, thì lòng tốt thêm tràn đầy nơi ta, như khi cầm một cái gì thơm hương cho ai, trước khi người đó nhận được, chúng ta có mùi hương ấy ở tay và tâm hồn chúng ta.

Như thế, những giá trị sống theo đạo Phật đương nhiên phải dựa trên định luật khách quan là nhân quả, và kết quả của nó là hạnh phúc, đưa con người ta tiến hóa hướng lên, hoàn thiện tự thân con người ấy.

Chính hai yếu tố này làm cho một cách sống nào đó trở thành giá trị, và đó là cái chúng ta gọi là giá trị sống. Và ngược lại, những cái gì đem lại khổ đau, không đem lại hạnh phúc, đem lại sự xuống cấp không đem lại sự nâng cấp, cả cho mình và cho người, những cái đó không thể gọi là giá trị sống được.

Như trên đã nói, chúng ta không thể kể hết những giá trị sống, những đức tính cần có để con người có thể trở nên hoàn thiện, trở nên hanh phúc – vì hạnh phúc phải là một phẩm tính không thể không có trong sự hoàn thiện. Ở đây chúng ta chỉ khảo sát những giá trị sống tập trung vào ba điểm: giá trị sống của một người trong tương quan với chính cá nhân mình, trong tương quan với những người khác và tương quan với thiên nhiên.

1. Giá trị sống trong tương quan với chính cá nhân mình: Ít phiền não, nhiều an vui, ít đau khổ, nhiều hạnh phúc.

Thông thường chúng ta ai cũng ngán ngại những người có lòng tham bất kể lương tri, pháp luật, có sự nóng giận thường trực, có sự si mê ngoan cố, có sự kiêu mạn điên rồ, có sự nghi ngờ điều động tất cả thái độ sống… Những cái đó đạo Phật gọi là phiền não.

Ai cũng biết rằng nếu chúng ta càng ít những phiền não ấy, chúng ta càng an vui: và càng có nhiều phiền não ấy, chúng ta càng mất an vui. Phiền não là cái phá hoại tệ hại nhất, kẻ thù nguy hiểm nhất ở trong ta, phá hoại đời sống an vui của chúng ta.

Phiền não khiến chúng ta không thể làm việc có năng suất, không thể tập trung để đọc sách, để nghe âm nhạc, không thể thưởng thức sự êm ả của một buổi chiều, một cội cây, một gia đình, vui đùa cùng em bé, phiền não khiến cho một tiếng chim kêu cũng bực mình, phiền não làm cho những mối tương quan thân quen thành ra bị nhiễm độc, phiền não che ám những mối tương quan với toàn thể đời sống.

Không bị phiền não sai sử là một giá trị của con người nói chung. Nhưng với đạo Phật, vấn nạn này được đào sâu đến tận gốc rễ và giải quyết dứt điểm. Những phiền não ấy tuy chỉ là những cái không có bản chất, tạm thời, “ký sinh” – như những đám mây tạm thời che mặt trời – nhưng ở mức độ tâm thức của người bình thường, chúng che ám hoàn toàn nguồn tâm đầy ánh sáng của trí tuệ, nước mát của từ bi và cội nguồn an lạc.

Trong quan điểm đạo Phật, một con người càng nhiều phiền não thì được đánh giá thấp, càng ít phiền não được đánh giá cao, bất kể người đó có hoàn cảnh ra sao, bởi vì càng nhiều phiền não người đó càng điên đảo, càng tự làm hại mình, và phiền não sẽ tác động bên ngoài làm khổ những người xung quanh.

Phiền não và an vui tỷ lệ nghịch với nhau. Càng ít phiền não thì càng an vui, càng không hao tán năng lực cho nên càng lành mạnh sống động, càng quan tâm và sẵn sàng làm việc vì lợi ích cho những người khác.

Cho nên một trong những giá trịtiêu chuẩn để đo giá trị con người tiến bộ bao nhiêu là sự nhiều hay it phiền não và cái đối nghịch của nó là ít hay nhiều an vui. Tột đỉnh của điều này là không có phiền não, tức là hoàn toàn an vui, đó là mục đích của đời ngườiđạo Phật gọi là giải thoát.

Tiêu chuẩn trên có thể diễn tả thành ít khổ đau và nhiều hạnh phúc. Khi nói đến phiền não và an vui, chúng ta chú trọng đến mặt tâm hơn, và khi nói đến khổ đau và hạnh phúc chúng ta nói đến cả mặt tâm lẫn thân, nghĩa là toàn bộ cuộc sống vật chất và lẫn tinh thần của con người.

Để có ít khổ đau và nhiều hạnh phúc, chúng ta không làm những hành động xấu về thân và tâm để bị đưa đến những khổ đau về thân và tâm. Thay vào đó, chúng ta làm những hành động tốt về thân và tâm để đưa đến những hạnh phúc về thân và tâm.

Tất cả đêu dựa vào nhân quả, tóm gọn thành: không có điều gì xấu sẽ xảy ra với chúng ta nếu nơi chúng ta không có nhân của cái đó, và điều gì tốt sẽ xảy ra nếu nơi chúng ta có nhân của cái đó. Đây là nền tảng để có một cuộc sống hạnh phúc, không lo sợ, ngược lại tràn đầy niềm tin sống.

Khá nhiều người nghĩ rằng đạo Phật cho “đời là bể khổ”, đạo Phật có vẻ bi quan. Nhưng thật ra, khổ đau chỉ là một nhận xét của đạo Phật về cuộc sống bình thường của chúng ta. Ý nghĩa thực sự và sống còn của đạo Phật là sự tận diệt khổ đau. Khổ đau với đạo Phật là cái xấu cần phải trừ bỏ. Bởi thế giá trị sống của đạo Phật là hãy sống sao cho, bây giờ và mai sau, ít khổ đau và nhiều hạnh phúc.

Chúng ta thấy Đức Phật được xưng là Lưỡng Túc Tôn, đầy đủ hai sự tích tập: phước đứctrí tuệ. Cuộc đời đầy thuận lợi của Đức Phật từ gia đình cho đến đệ tử nói lên sự tích tập phước đức của Ngài. Và sự giải thoát vĩnh viễn khỏi khổ đau nói lên sự tích tập trí tuệ của Ngài.

Cho nên khổ đau và hạnh phúc, cả vật chất lẫn tinh thần, là một tiêu chuẩn để đánh giá một con người. Ít khổ đau và nhiều hạnh phúc là một giá trị sống căn bản cho mỗi cá nhân, không kể người ấy có biết đạo Phật hay không.

Nhưng nếu một người nào cho đó là một giá trị thật sự cho cuộc sống của mình, người đó sẽ thấy rằng đạo Phật bao gồm đầy đủ những phương tiện để mỗi cá nhân có thể thực hiện được tiêu chuẩn đó, và nhờ thế mà thấu hiểu được ý nghĩa của việc có mặt của mình ở trên cuộc đời này.

2. Giá trị sống trong tương quan với người khác: Đem lại nhiều hạnh phúc và ít khổ đau cho những người khác

Thông thường chúng ta vẫn xem người nào sống mà đem lại hạnh phúc cho nhiều người, sống có ích cho nhiều người, là vĩ nhân, là thánh nhân; còn người nào sống mà đem lại khổ đau cho nhiều người, sống mà làm hại nhiều người, là những “tội phạm của nhân loại”.

Ở mức độ nhỏ hẹp của một cuộc sống bình thường, một người sống có tình có lý, có một ít lòng tốt, tình thương, nhẫn nại, khoan dung, khiêm hòa với những người chung quanh, thì khi người đó chết đi, cái nổi bật trong trí nhớ những người thân quen là những giá trị sống, những phẩm tính, tấm lòng của người kia.

Cho nên cuộc sống nào càng đem lại sự tốt đẹp, hạnh phúc cho nhiều người thì cuộc sống đó càng có giá trị, và cuộc sống nào đem lại sự xấu kém, khổ đau cho người khác thì cuộc sống đó càng kém giá trị.

Ở đây chúng ta chú ý đến mối liên hệ biện chứng, hữu cơ giữa việc làm lợi cho người khác, làm cho người khác hạnh phúc và sự hoàn thiện của riêng của cá nhân, hay là mối liên hệ giữa lợi mình và lợi người, nói theo ngôn ngữ Phật giáo.

Thứ nhất, nếu người ta càng ít phiền não bao nhiêu, người ta càng có ích, càng đem lại hạnh phúc cho người khác chừng đó. Nếu một công việc làmhạnh phúc của người khác bắt nguồn từ một động cơ được xem là không phiền não, tiến hành trong một trạng thái được xem là không phiền não thì kết quả phụng sự cho người khác là rất to lớn từ mặt vật chất đến bề sâu tâm thức.

Thiền sư Vạn Hạnh ngày xưa và Mahatma Gandhi là một thí dụ.

Thứ hai, khi làm cho một người hay một số người hạnh phúc, chúng ta liền hạnh phúc, và ngược lại. Khi làm cho người khác tiến bộ, nâng cấp cho người khác, giúp đỡ cho người khác thì tự chúng ta lại càng tiến bộ thêm; được nâng cấp và giúp đỡ thêm. Cho nên một ý của đạo Phật là người đi trên con đường tự hoàn thiện cần cảm ơn, biết ơn người khác. Nếu không có họ, lấy ai để hành bố thí, nhẫn nhục, lấy ai để tích tập công đức, để trau giồi những giá trị sống hay là những phẩm tính cao cả của bản thân mình?

Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình. Như thế, lợi mình lợi người là hai cái không thể tách rời nhau trong một tâm thức tiến bộ, nghĩa là bao la và sâu thẳm, mà đạo Phật gọi là Bồ đề tâm. Bởi thế lợi mình và lợi người là không hai, và là ý nghĩa, hạnh phúc của con người trên mặt đất này.

3. Giá trị sống trong tương quan với thế giới tự nhiên: ít phá hoại, nhiều nuôi dưỡng

Chúng ta thấy trong giới luật đạo Phật, sự không xài phí quá mức tài nguyên thiên nhiên thể hiện rất rõ: giặt y áo không được dùng quá nhiều nước, không làm ô nhiễm nguồn nước (nhổ nước bọt, đổ chất thải…) không chặt cây khi không nhận thấy là rất cần thiết, không đốt lửa thiếu cẩn trọng… Tất cả nói lên sự ít xâm phạm thiên nhiênđể dành cho người khác. Nói đến nước, chúng ta đều biết là một vấn nạn của thế kỷ XXI là loài người bị thiếu nước. Như thế, chúng ta thấy cái nhìn của đạo Phật về thiên nhiên thật sâu xa.

Đạo Phật không chủ trương không can thiệp đến thiên nhiên để thiên nhiên vẫn là hoang sơ, nguyên phác. Nhưng đạo Phật quan niệm thiên nhiên cần được cải tạo, sửa sang để thiên nhiên là một thiên nhiên được nâng cấp, được nhân tính hóa chứ không phải là một thiên nhiên bị hủy hoại vì những phiền não của con người mà trong đó tham lam là chủ yếu.

Trong một ý nghĩa, chủ trương “ít muốn, biết đủ” (thiểu dục tri túc) của đạo Phật là sự tôn trọng thế giới tự nhiên, bao gồm thực vật, sinh vật và cả loài vô cơ, vô tình, đất, nước, lửa, gió, không khí. Tôn trọng thiên nhiên là một phần của sự tôn trọng toàn bộ thế giới, trong đó bao gồm ta, người, và toàn bộ thiên nhiên.

Cho nên ít phá hoại, nhiều nuôi dưỡng, ít đem lại “khổ đau” cho thiên nhiên, đem lại nhiều “hạnh phúc” cho thiên nhiêngiá trị sống của bất kỳ con người nào, vì ai cũng biết thiên nhiên là một phần của thân tâm con người.

Để kết luận, chúng ta thấy những giá trị sống, những đức tính lý tưởng của cuộc đời đều có trong đạo Phật. Nhưng đạo Phật không chỉ nêu lên những giá trị sống, những đức tính lý tưởng để rồi chỉ mơ tưởng và rồi trở thành một lý thuyết không tưởng, một đạo đức học hay nhân sinh quan không tưởng. Với đạo Phật không chỉ có tiêu chuẩn lý tưởng (cảnh) mà còn có phương pháp thực hành (hạnh) để cuối cùng đạt đến kết quả hiện thực (quả). Chính sự thực hành cụ thể làm cho những lý tưởng đó trở thành hiện thực trong đời sống.

Như vậy, những giá trị sống của đạo Phật vẫn là những giá trị sống của cuộc đời bình thường, có điều đạo Phật giúp chúng ta phân biệt rõ ràng đâu là một giá trị sống có “giá trị” hơn, nghĩa là mức độ ảnh hưởng của nó rộng lớn, lâu dài và đem lại những kết quả tốt hơn cho mình và cho người.

Hơn nữa, đạo Phật còn cho chúng ta cách sống những giá trị ấy, những thực hành để làm cho những giá trị sống ấy hiện thực thành chính đời sống của mỗi con người. Đạo Phật vừa giới thiệu, định giá những giá trị, những tiêu chuẩn sống, đồng thời giúp hiện thực hóa những giá trị tiêu chuẩn ấy, như thế, đạo Phật trở thành con đường bao trùm toàn bộ bước đầu cho đến bước cuối của những giá trị sống, cho nên có thể nói rằng đạo Phậtgiá trị sống sâu rộng mà cao tột bao trùm toàn bộ đời sống.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8471)
Bản Chất của Hạnh Phúc được trích từ tác phẩm Nghệ Thuật Sống Hạnh Phúc: Cẩm Nang cho Đời Sống, một quyển sách căn cứ trên sự mở rộng những đối thoại giửa Đức Đạt Lai Lạt MaBác sĩ Howard C. Cutter, một nhà tâm lý trị liệu phương Tây.
(Xem: 8011)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7747)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6954)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13824)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7554)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9318)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7847)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7765)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7341)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7738)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7472)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8672)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 11079)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15435)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19211)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14909)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8836)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8831)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14656)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15286)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8535)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 10985)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11334)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8716)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9079)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19780)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24676)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8818)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9143)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10811)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 9016)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7922)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8806)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8301)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7319)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 11141)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7386)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8287)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17654)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44217)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45490)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 45066)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10634)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8568)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7568)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7589)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7376)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12120)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 7931)
Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa?
(Xem: 8431)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9177)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 8112)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8908)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 8018)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8187)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8689)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16347)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
(Xem: 7148)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
(Xem: 6936)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant