Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giáo pháp tứ y trong cuộc sống hiện đại

21 Tháng Chín 201000:00(Xem: 17352)
Giáo pháp tứ y trong cuộc sống hiện đại

Giáo Pháp Tứ Y trong đạo Phậtgiáo lý nói về 4 phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ, giải thoát. Bốn phương pháp thực tập sự nương tựa này không phải là một hành vi gì cao siêu, hoặc phải “tu luyện” lâu xa, mà chỉ là những hành vi rất thường nhật như đói ăn, khát uống… nhưng nó cũng là một trong những thiện pháp nuôi lớn phúc đứctrí tuệ cho mỗi con người, đem đến sự an lạc thân tâm, cũng từ đó cảm hoá được quần chúng ở mọi lúc, mọi nơi.
 
Y pháp bất y nhân

Nghĩa là: Nương tựa, y cứ vào Pháp chứ không nương tựa người giảng Pháp, nói Pháp. Bởi vì, trong thực tế người có duyên được các Tổ, Thày thu nhận để truyền Pháp nhằm duy trì mạng mạch Phật pháp trường tồn. Hoặc các Pháp được thu nhận qua Kinh sách, các tài liệu truyền giáo của người xưa để lại được người thông tuệ thu nhận, người ấy lại có năng khiếu “sư phạm”, mặc dù trong đời sống thực của vị ấy chưa được mẫu mực hoặc chưa phải người tiêu biểu trong Thiền môn, có những biểu hiện về tham, sân, si chẳng hạn. Trong trường hợp đó nếu ta cứ cố chấp, cứ định kiến với “cái ta” của vị ấy, không nghe Pháp của vị ấy nói thì ta đã đánh mất một cơ hội nghe Pháp.

Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo, tức thu nhận tinh hoa, nhận ra con đường chân lý. Ta nghe Pháp thì cũng không nhất thiết phải biết “lý lịch trích ngang” về đạo đức của người giảng Pháp là các bậc thầy có đời sống mẫu mực, phạm hạnh, gọi là “có uy đức tự tại” thì sự hiện thân của vị Thầy đó đã là một “Thân giáo” rồi.

 
blank
 

Ảnh hưởng trực tiếp Thân giáo của vị ấy sẽ cảm hoá và thu phục dễ dàng với những ai được gần gũi, tiếp cận, kể cả bậc ác vương… Thiết nghĩ, đời nay cách Phật đã hơn 25 thế kỷ rồi, Chư Thánh cũng dần khuất bóng. Bây giờ chỉ còn lại Pháp thânBáo thân Phật mà thôi. Ấy cũng là may mắn cho loài người, cho những ai biết đến dấu chân Phật vẫn thường còn trong đời sống văn minh ở Thiên niên kỷ thứ ba này.

Thật vậy, bởi Pháp thânBáo thân của Phật là thân chân lý tuyệt đối, là Chân thân, tức là thân không sinh diệt, và cũng là thân ứng hiện phúc đức, trí tuệ. Còn như Hoá- thân Phật, tức nhục thân là thân sinh diệt đương nhiên bị tan hoại theo lý Vô thường. Cũng từ hiểu biết về “Phật tam thân” này ta thấy thực tập nương tựa Pháp quan trọng ngần nào. Lịch sử Phật giáo còn ghi lại: Trước giờ phút sắp nhập Đại Niết- Bàn, Phật Thích Ca đã từ chối lãnh đạo Tăng đoànTôn giả A-nan đã thỉnh Phật cho lời Di giáo. Đức Phật đã để lại lời dặn cuối cùng: “Hãy nương tựa Pháp, Pháp lãnh đạo…”

Như vậy sự nương tựa Pháp là điều chúng ta luôn ghi nhớ và thực hành.

Y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh

Kinh Liễu nghĩa là Kinh nói về chân lý tuyệt đối. Còn Kinh Bất liễu nghĩa là Kinh phương tiện, chỉ nói về chân lý tương đối. Nhưng cả hai đều là sự thật căn bản nên được gọi là “Nhị đế”.

Sự thật tương đối cũng là sự thật đấy nhưng nó không sâu sắc, nó không phải sự thật tột cùng, nhưng nó cũng quan trọng để từ đó người học, người tu từng bước nhận thức thực tại, là phương tiện không thể thiếu để thăng hoa tri thức trên bước đường ngộ đạo. Còn sự thật tuyệt đối cũng hàm chứa sự thật tương đối với liễu nghĩa, Phật học gọi là Chân đế, để phân biệt với sự thật tương đối gọi là Tục đế.

Ví dụ những sự hiểu biết về “sắc không” của nhà Phật qua hai câu thơ của Từ đạo Hạnh (Đức Thánh Láng):

“Có thì có tự mảy may
 
Không thì cả thế giới này cũng không”.
 
Cái “có” của vật chất hiện hữu dẫu nhỏ như vi trần cũng là có, dẫu chỉ “mảy may” thôi. Đó là sự thật tương đối (Tục đế). Còn sự thật tuyệt đốisự thật “muôn Pháp do Duyên sinh” chịu tác động của Vô thường mà “Cả thế giới này” cũng không nằm ngoài quy luật của sự hoại diệt kia. Nên nó là Chân đế, bởi “cả thế giới này cũng không” chính là Liễu – nghĩa là sự thật tuyệt đối.

Y nghĩa bất y ngữ

Nghĩa là, căn cứ vào nghĩa lý chứ không phải câu chữ. Đừng mắc kẹt vào câu chữ, ngôn từ, nó chỉ là phương tiện nhằm “đánh thức” tuệ giác chứ nó không phải là tụê giác. Chuyện du sĩ Lepali thâm ngộ giáo Pháp, từ bỏ thày cũ của mình xin quy y, Đức Phật đã khuyên vị ấy nên suy nghĩ cho kỹ, bởi đạo Phật là đến để thấy, không phải đến để tin. Chỉ sau khi thực sự sống và thấy nó an lạc, hạnh phúc thì hãy tin theo. Đức Phật còn bảo rằng: “Đừng vội tin chỉ vì tôn kính bậc đạo sư”.

Lời dạy có tinh thần phê phán này là khởi điểm đầu tiên khai mở tuệ giác cho mỗi cá nhân con người chúng ta. Bởi, lời nói hay chữ viết chỉ là ý niệm của sự thật, không là tự thân của sự thật ví như tấm bản đồ thành phố không phải là thành phố, nhưng nhờ tấm bản đồ ấy ta mới “tiếp cận” thành phố dễ dàng. Câu nói người xưa: Ý tại ngôn ngoại; hay thi hào Nguyễn Du bảo: “Linh văn bất tại ngữ ngôn khoa” là điều khẳng định: Văn hay không phải ở ngôn ngữ; nên cái “hay” đều là “siêu ngữ nghĩa” cả. Đó là mượn lời để tỏ ý, được ý thì quên lời. Lời thì “chật” (ít về số lượng) nhưng ý phải “rộng” (phải hàm chứa ý nghĩa sâu rộng, thậm thâm vi diệu).

Văn hào Nhật Bản Kawabata Yasunari (1899- 1972) giải NOBEL văn chương 1968 từng nói: “Kinh Phật là tác phẩm văn chương vĩ đại nhất của nhân loại”. Ấy vậy mà, những ngày cuối cùng của Đức Phật, trước khi ngài Đại Niết Bàn Ngài đã tuyên nói với các đệ tử cùng các đại chúng rằng: “Trong suốt 45 năm Đức Như Lai không nói một chữ”. Ngài không muốn người sau bị kẹt vào những lời Ngài từng nói. Bởi “chí đạo vô ngôn”.

Sau Phật, Lão Tử cũng xác quyết chân lý này trong Đạo Đức Kinh: “Đã nói thành lời thì còn gì là đạo nữa!”. Nhưng dẫu “Bất y ngữ” là không nương tựa vào ngôn ngữ, nhưng lại cũng không thể bỏ “tục” về “chân”; mà phải nương “ngữ” để sáng tỏ “nghĩa”. Ví như các Pháp thoại là lời Kinh cũng chỉ là chân lý ảnh tượng mà chất liệu là ngôn ngữ, ý niệm để người học, người tu thấy được chân lý bản chất trực tiếp từ kinh nghiệm nơi mình, chứ không phải “lấy” từ kinh nghiệm người khác, bởi nghiệp lực mỗi người không giống nhau, nên sự chứng đạt cũng khác nhau. Cho nên giáo dục Phật giáo được gọi là giáo dục “đánh thức chứ không phải nhồi nhét kiến thức hay sự áp đặt”.

Y trí bất y thức

Nghĩa là: Nương tựa vào trí tụê mà không nương tựa vào kiến thức.

Trí tuệ là hai danh từ ghép dung thông nhau, tuy nhiên có đôi chút khác nhau. Đạt tới sự tướng hữu vi là Trí- Nghĩa là mọi sự việc hiện bày rõ ràng, có sự phân biệt, tính đếm; nên nó quyết đoán. Đạt tới sự lý vô vi gọi là Tuệ- đó là sự thông tỏ, mà không còn phân biệt, tính đếm.

Do vậy: Trí tạo tác dụng cho Tuệ. Tuệ bao hàm, thông đạt tác dụng của Trí. Cho nên gọi đủ phải là Trí Tuệ. Và chỉ có “Y Trí”, tuệ giác mới phát sinh, tức cái “thấy” khách quan được thông tỏ tận cùng; ở đó không có tham, sân, si bởi nó là Thật tướng tức Chân tướng. Vì thế đây là chỗ đáng được nương tựa, y cứ, để học hiểu, tăng ích trí tuệ. Còn “Bất y thức”, tức không nên nương tựa vào kiến thức, hoặc là đối tượng của nhận thức. Chức năng của “Thức” là sự phân biệt, phân tích, phân loại. Sự nhận biết đối tượng của nhận thức được thông qua các giác quan cụ thể như: mắt, tai, mũi, lưỡi…Nó là trung gian của suy luận và khái niệm nên đương nhiên nó hàm chứa tham, sân, si… khác với Trí tuệtrực giác nên không có tam độc này.

Tóm lại, trong giáo pháp Tứ Y, Đức Phật đưa ra 4 cặp phạm trù; trong mỗi cặp có hai “đối tượng” để tìm hiểu, đó là “y” tức sự nương tựa và “Bất y” là không nương tựa, không y cứ vào đó, nhưng cả hai lại đều có tính căn bản nên gọi là “Nhị Đế”.

Và cũng từ cái “bất khả phân” ấy gợi nhắc chúng ta về sự tu của chính mình. Đó là tu trong ngũ uẩn thân. Từ thân ngũ uẩn có đủ cả tham, sân, si ấy mà thăng hoa tri thức, chứng đạt Giới- Định- Tuệ của Tam Vô Lậu học không thể khác được.

Pháp Vương Tử
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6937)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
(Xem: 9651)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
(Xem: 23142)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
(Xem: 8117)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20536)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19552)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18423)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16279)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15956)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19108)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14342)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9668)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8766)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8234)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8928)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 11011)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9165)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8920)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 7988)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9110)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35660)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8592)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15130)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8722)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15328)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9196)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8871)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9385)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8509)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10327)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7693)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9578)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7539)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17263)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15043)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9540)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20916)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9230)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7188)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17741)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17662)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25854)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7853)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9944)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7286)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9673)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8163)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9130)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7428)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8819)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7948)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8378)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7557)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8755)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8182)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8904)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7320)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 14028)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7134)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
(Xem: 10387)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant