Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giáo pháp tứ y trong cuộc sống hiện đại

21 Tháng Chín 201000:00(Xem: 17330)
Giáo pháp tứ y trong cuộc sống hiện đại

Giáo Pháp Tứ Y trong đạo Phậtgiáo lý nói về 4 phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ, giải thoát. Bốn phương pháp thực tập sự nương tựa này không phải là một hành vi gì cao siêu, hoặc phải “tu luyện” lâu xa, mà chỉ là những hành vi rất thường nhật như đói ăn, khát uống… nhưng nó cũng là một trong những thiện pháp nuôi lớn phúc đứctrí tuệ cho mỗi con người, đem đến sự an lạc thân tâm, cũng từ đó cảm hoá được quần chúng ở mọi lúc, mọi nơi.
 
Y pháp bất y nhân

Nghĩa là: Nương tựa, y cứ vào Pháp chứ không nương tựa người giảng Pháp, nói Pháp. Bởi vì, trong thực tế người có duyên được các Tổ, Thày thu nhận để truyền Pháp nhằm duy trì mạng mạch Phật pháp trường tồn. Hoặc các Pháp được thu nhận qua Kinh sách, các tài liệu truyền giáo của người xưa để lại được người thông tuệ thu nhận, người ấy lại có năng khiếu “sư phạm”, mặc dù trong đời sống thực của vị ấy chưa được mẫu mực hoặc chưa phải người tiêu biểu trong Thiền môn, có những biểu hiện về tham, sân, si chẳng hạn. Trong trường hợp đó nếu ta cứ cố chấp, cứ định kiến với “cái ta” của vị ấy, không nghe Pháp của vị ấy nói thì ta đã đánh mất một cơ hội nghe Pháp.

Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo, tức thu nhận tinh hoa, nhận ra con đường chân lý. Ta nghe Pháp thì cũng không nhất thiết phải biết “lý lịch trích ngang” về đạo đức của người giảng Pháp là các bậc thầy có đời sống mẫu mực, phạm hạnh, gọi là “có uy đức tự tại” thì sự hiện thân của vị Thầy đó đã là một “Thân giáo” rồi.

 
blank
 

Ảnh hưởng trực tiếp Thân giáo của vị ấy sẽ cảm hoá và thu phục dễ dàng với những ai được gần gũi, tiếp cận, kể cả bậc ác vương… Thiết nghĩ, đời nay cách Phật đã hơn 25 thế kỷ rồi, Chư Thánh cũng dần khuất bóng. Bây giờ chỉ còn lại Pháp thânBáo thân Phật mà thôi. Ấy cũng là may mắn cho loài người, cho những ai biết đến dấu chân Phật vẫn thường còn trong đời sống văn minh ở Thiên niên kỷ thứ ba này.

Thật vậy, bởi Pháp thânBáo thân của Phật là thân chân lý tuyệt đối, là Chân thân, tức là thân không sinh diệt, và cũng là thân ứng hiện phúc đức, trí tuệ. Còn như Hoá- thân Phật, tức nhục thân là thân sinh diệt đương nhiên bị tan hoại theo lý Vô thường. Cũng từ hiểu biết về “Phật tam thân” này ta thấy thực tập nương tựa Pháp quan trọng ngần nào. Lịch sử Phật giáo còn ghi lại: Trước giờ phút sắp nhập Đại Niết- Bàn, Phật Thích Ca đã từ chối lãnh đạo Tăng đoànTôn giả A-nan đã thỉnh Phật cho lời Di giáo. Đức Phật đã để lại lời dặn cuối cùng: “Hãy nương tựa Pháp, Pháp lãnh đạo…”

Như vậy sự nương tựa Pháp là điều chúng ta luôn ghi nhớ và thực hành.

Y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh

Kinh Liễu nghĩa là Kinh nói về chân lý tuyệt đối. Còn Kinh Bất liễu nghĩa là Kinh phương tiện, chỉ nói về chân lý tương đối. Nhưng cả hai đều là sự thật căn bản nên được gọi là “Nhị đế”.

Sự thật tương đối cũng là sự thật đấy nhưng nó không sâu sắc, nó không phải sự thật tột cùng, nhưng nó cũng quan trọng để từ đó người học, người tu từng bước nhận thức thực tại, là phương tiện không thể thiếu để thăng hoa tri thức trên bước đường ngộ đạo. Còn sự thật tuyệt đối cũng hàm chứa sự thật tương đối với liễu nghĩa, Phật học gọi là Chân đế, để phân biệt với sự thật tương đối gọi là Tục đế.

Ví dụ những sự hiểu biết về “sắc không” của nhà Phật qua hai câu thơ của Từ đạo Hạnh (Đức Thánh Láng):

“Có thì có tự mảy may
 
Không thì cả thế giới này cũng không”.
 
Cái “có” của vật chất hiện hữu dẫu nhỏ như vi trần cũng là có, dẫu chỉ “mảy may” thôi. Đó là sự thật tương đối (Tục đế). Còn sự thật tuyệt đốisự thật “muôn Pháp do Duyên sinh” chịu tác động của Vô thường mà “Cả thế giới này” cũng không nằm ngoài quy luật của sự hoại diệt kia. Nên nó là Chân đế, bởi “cả thế giới này cũng không” chính là Liễu – nghĩa là sự thật tuyệt đối.

Y nghĩa bất y ngữ

Nghĩa là, căn cứ vào nghĩa lý chứ không phải câu chữ. Đừng mắc kẹt vào câu chữ, ngôn từ, nó chỉ là phương tiện nhằm “đánh thức” tuệ giác chứ nó không phải là tụê giác. Chuyện du sĩ Lepali thâm ngộ giáo Pháp, từ bỏ thày cũ của mình xin quy y, Đức Phật đã khuyên vị ấy nên suy nghĩ cho kỹ, bởi đạo Phật là đến để thấy, không phải đến để tin. Chỉ sau khi thực sự sống và thấy nó an lạc, hạnh phúc thì hãy tin theo. Đức Phật còn bảo rằng: “Đừng vội tin chỉ vì tôn kính bậc đạo sư”.

Lời dạy có tinh thần phê phán này là khởi điểm đầu tiên khai mở tuệ giác cho mỗi cá nhân con người chúng ta. Bởi, lời nói hay chữ viết chỉ là ý niệm của sự thật, không là tự thân của sự thật ví như tấm bản đồ thành phố không phải là thành phố, nhưng nhờ tấm bản đồ ấy ta mới “tiếp cận” thành phố dễ dàng. Câu nói người xưa: Ý tại ngôn ngoại; hay thi hào Nguyễn Du bảo: “Linh văn bất tại ngữ ngôn khoa” là điều khẳng định: Văn hay không phải ở ngôn ngữ; nên cái “hay” đều là “siêu ngữ nghĩa” cả. Đó là mượn lời để tỏ ý, được ý thì quên lời. Lời thì “chật” (ít về số lượng) nhưng ý phải “rộng” (phải hàm chứa ý nghĩa sâu rộng, thậm thâm vi diệu).

Văn hào Nhật Bản Kawabata Yasunari (1899- 1972) giải NOBEL văn chương 1968 từng nói: “Kinh Phật là tác phẩm văn chương vĩ đại nhất của nhân loại”. Ấy vậy mà, những ngày cuối cùng của Đức Phật, trước khi ngài Đại Niết Bàn Ngài đã tuyên nói với các đệ tử cùng các đại chúng rằng: “Trong suốt 45 năm Đức Như Lai không nói một chữ”. Ngài không muốn người sau bị kẹt vào những lời Ngài từng nói. Bởi “chí đạo vô ngôn”.

Sau Phật, Lão Tử cũng xác quyết chân lý này trong Đạo Đức Kinh: “Đã nói thành lời thì còn gì là đạo nữa!”. Nhưng dẫu “Bất y ngữ” là không nương tựa vào ngôn ngữ, nhưng lại cũng không thể bỏ “tục” về “chân”; mà phải nương “ngữ” để sáng tỏ “nghĩa”. Ví như các Pháp thoại là lời Kinh cũng chỉ là chân lý ảnh tượng mà chất liệu là ngôn ngữ, ý niệm để người học, người tu thấy được chân lý bản chất trực tiếp từ kinh nghiệm nơi mình, chứ không phải “lấy” từ kinh nghiệm người khác, bởi nghiệp lực mỗi người không giống nhau, nên sự chứng đạt cũng khác nhau. Cho nên giáo dục Phật giáo được gọi là giáo dục “đánh thức chứ không phải nhồi nhét kiến thức hay sự áp đặt”.

Y trí bất y thức

Nghĩa là: Nương tựa vào trí tụê mà không nương tựa vào kiến thức.

Trí tuệ là hai danh từ ghép dung thông nhau, tuy nhiên có đôi chút khác nhau. Đạt tới sự tướng hữu vi là Trí- Nghĩa là mọi sự việc hiện bày rõ ràng, có sự phân biệt, tính đếm; nên nó quyết đoán. Đạt tới sự lý vô vi gọi là Tuệ- đó là sự thông tỏ, mà không còn phân biệt, tính đếm.

Do vậy: Trí tạo tác dụng cho Tuệ. Tuệ bao hàm, thông đạt tác dụng của Trí. Cho nên gọi đủ phải là Trí Tuệ. Và chỉ có “Y Trí”, tuệ giác mới phát sinh, tức cái “thấy” khách quan được thông tỏ tận cùng; ở đó không có tham, sân, si bởi nó là Thật tướng tức Chân tướng. Vì thế đây là chỗ đáng được nương tựa, y cứ, để học hiểu, tăng ích trí tuệ. Còn “Bất y thức”, tức không nên nương tựa vào kiến thức, hoặc là đối tượng của nhận thức. Chức năng của “Thức” là sự phân biệt, phân tích, phân loại. Sự nhận biết đối tượng của nhận thức được thông qua các giác quan cụ thể như: mắt, tai, mũi, lưỡi…Nó là trung gian của suy luận và khái niệm nên đương nhiên nó hàm chứa tham, sân, si… khác với Trí tuệtrực giác nên không có tam độc này.

Tóm lại, trong giáo pháp Tứ Y, Đức Phật đưa ra 4 cặp phạm trù; trong mỗi cặp có hai “đối tượng” để tìm hiểu, đó là “y” tức sự nương tựa và “Bất y” là không nương tựa, không y cứ vào đó, nhưng cả hai lại đều có tính căn bản nên gọi là “Nhị Đế”.

Và cũng từ cái “bất khả phân” ấy gợi nhắc chúng ta về sự tu của chính mình. Đó là tu trong ngũ uẩn thân. Từ thân ngũ uẩn có đủ cả tham, sân, si ấy mà thăng hoa tri thức, chứng đạt Giới- Định- Tuệ của Tam Vô Lậu học không thể khác được.

Pháp Vương Tử
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11480)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12647)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12266)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11042)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10919)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13372)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11794)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13672)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11913)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11183)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12208)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12412)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20604)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12436)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12464)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11728)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11602)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22438)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13586)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29693)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11552)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16756)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12015)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16853)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12084)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17933)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12654)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13178)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14771)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22635)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10595)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14056)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13878)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13728)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13877)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13950)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14841)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13861)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18425)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22810)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15405)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 22425)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14271)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12593)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11177)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13218)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13114)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18805)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17186)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13518)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12927)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14706)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14664)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15882)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13524)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27445)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13254)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16735)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21401)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant