Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hành trình sơ chuyển Pháp luân của đức Phật

21 Tháng Chín 201000:00(Xem: 15404)
Hành trình sơ chuyển Pháp luân của đức Phật

Cuộc hành trình miên viễn của kiếp sống trầm luân sáu nẻo luân hồi đã thôi thúc rất nhiều người đi tìm những phương pháp để thoát ly khổ não. Hạnh phúc và khổ đau là hai thực trạng của cuộc sống mà con người luôn đề cập tới. Nhưng để biết được hạnh phúc là gì thì con người phải trực nhận ra được bản chất của khổ đau như thế nào rồi mới bàn tới phương pháp giải quyết khổ đau.

Xã hội Ấn Độ là một trong những quốc gia sản sinh ra nhiều nhân tài, nhiều triết gia, và cũng là nơi rất phức tạp trên các lãnh vực kinh tế chính trị, văn hóa, ngôn ngữ, triết lý và tôn giáo… Chính vì sự đa dạng như vậy, nên khổ đau và hạnh phúc sẽ được đề cập đến nhiều hơn. Khổ đau như một sự thật hiển nhiên của cuộc đời mà bất cứ một thời đại nào, một quốc gia nào, một con người nào không biết và không cảm nhận, khổ đau đó không chỉ đúng với ngày xưa mà còn đúng cả hôm nay và mai sau.

Cũng ở nơi đây, cách đây trên 2500 năm, xã hội hình thành nên những giáo phái, những học thuyết với những chủ trương khác nhau để lý giải về hai nhu cầu bức thiết, không định hình được đâu là chân là giả, khiến khổ đau vẫn hoàn là khổ đau và nó mãi vây lấy kiếp người chưa một lúc nào ngừng nghỉ. Chính trong thời điểm đó, trong bối cảnh tàn khốc đó, mọi người ai cũng mong chờ có một bậc vĩ nhân xuất hiện để giải thoát họ ra khỏi sự nô lệ của kiếp người. Đức Phật đã ứng hiện. Cả cuộc đời của Ngài luôn đi sâu vào quần chúng, tìm hiểu nỗi đau của chúng sanh rồi tìm ra cho mình một hướng đi đúng đắn, quyết định bỏ lại sau lưng tất cả mọi cám dỗ của dục lạc trần gian, cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan. Ra đi với nhiều thao thức mong sao chính bản thân mình tìm ra một con đường bất tử cứu nhân độ thế. Suốt cuộc hành trình ra đi trong tịch tĩnh, cuối cùng Ngài đã tìm ra được đạo lộ của cánh cửa vô sanh, cánh cửa mà từ đây chư thiênloài người sẽ không còn bơ vơ lạc lõng hay sống trong sự lo sợ của sanh già bệnh chết, thay vào đó là sự sống trong an lànhgiải thoát. Ngài đã giác ngộ sau quá trình tư duy bằng tuệ quán, suy nghiệm và không ngừng nỗ lực tu tập. Chính sự quyết định này đã mở con mắt tuệ cho chúng sanh, đập tan đi mọi thành kiến mê lầm chấp ngã đã hằn sâu trong vô lượng kiếp, khẳng định lại giá trị hạnh phúc, nhân bản của một con người từng đánh mất đi giá trị có trong tầm tay của mình.

Sau khi thành đạo dưới cội Bồ-đề, đức Thế Tôn băn khoăn: rằng nên hay không nên vận chuyển bánh xe pháp, hay là sẽ nhập Niết-bàn, bởi vì Giáo pháp Ngài vừa chứng ngộ không phải là một giáo pháp bình thườnggiáo lý vừa chứng ngộ đó là một giáo pháp thật thâm áo, khó thấy, khó hiểu, dựa trên thực nghiệm, tuyệt diệu, không thể do lý luận có thể giải thích, tế nhị, chỉ người trí mới thấu hiểu được. Một giáo lý chỉ có người trí mới thấu hiểu, chỉ có những con người ly trần diệt nhiễm mới liễu ngộ thì thử hỏi ở thế gian được bao nhiêu người. Điều này khiến cho Thế Tôn, bậc Vô thượng Chánh đẳng giác, đã khởi lên tâm niệm muốn nhập Niết- bàn. Trong các kinh điển Pàli, chúng ta thấy có ghi lại tâm trạng này dưới hình thức một cuộc đối thoại với Phạm thiên Sahampati. Rõ ràng, đức Phật muốn dấy lên sự xung đột giữa các tư tưởng nội tâm của Ngài trở thành dễ hiểu nên đã sử dụng hình ảnh vị Phạm thiên lừng danh xuất hiện để trình bày những tư tưởng tranh luận cuối cùng trước khi quyết định có nên vận chuyển bánh xe pháp hay không. Chính sự vận động đấu tranh tư tưởng cuối cùng này đã mở ra một con đường thênh thang cho chúng sanh sau này nương nhờ, khai mở con đường bất tử đang đợi chờ ở phía trước. Đức Phật bảo: “Thế giới này thích thú dục lạc, song giáo pháp của ta hướng đến viễn ly, ly tham, ái diệt. Giả sử ta thuyết giảng giáo pháp này, tức phải đi ngược dòng, và người đời không hiểu được ta, điều ấy sẽ gây khó nhọc lòng cho ta”. Vị Phạm thiên trả lời: “Thế giới sẽ hủy diệt nếu đấng Toàn giác không quyết định thuyết pháp. Do vậy, cầu xin đức Thế Tôn hãy thuyết pháp. Có những người ít nhiễm bụi trong mắt, nếu không được nghe Pháp, chúng sẽ sa đọa. Song nếu chúng nghe Pháp, chúng sẽ đạt giải thoát”. Qua lời đối thoại ngược trở lại đó, vị Phạm thiên đã làm sanh khởi lòng từ bi và tâm nguyện độ sanh nơi đức Phật. Ngài nhận ra được mục đích ra đời của Ngài, sự tu tập của Ngài trải dài từ vô lượng kiếp đến nay không phải chỉ tu cho riêng mình, cho cái thân thể nằm trong một trượng sáu này của mình mà sự ra đời đó vì an lạc cho chư thiên, vì lợi íchhạnh phúc cho chư thiênloài người. Giữa một xã hội rối ren, rối ren như một đống tơ vò, bao đau khổ triền miên quấn chặt trải trùm trên tâm tư kiếp người không thể nào vượt khỏi, chưa có một hình thái nào để định hướng, dẫn dắt chúng sanh đoạn trừ hay dứt khoát như vậy, thì ngay nơi đó, ngay chính trong sự khổ đau cùng cực đó, sự hiện hữu của Ngài là một khởi điểm của ánh sáng chân lý, ánh sáng giải thoát giác ngộ, mở ra một chân trời thoáng đãng, thanh thản, nhẹ nhàng, khai triển hiển bày một thông điệp hòa bình nhân bản, tình thươngtrí tuệ. Sự hiện hữu của Ngài đã rống lên tiếng rống sư tử, cảnh tỉnh cho những ai đang sống trong dục vọng ý thức được rằng, mọi huyễn tướng của ràng buộc, mọi bóng tối của vô minh đang hiện bày từ đây sẽ đi lụi dần vào bóng đêm và sẽ chuyển hóa trong ánh sáng nhiệm mầu. Vì thế, Ngài đã tuyên dương Pháp thoại: “Cánh cửa bất tử sẽ rộng mở cho những ai muốn nghe pháp”. Ngài đồng ý với lời thỉnh cầu của Phạm thiên và sẽ lên đường thuyết pháp. Phạm thiên hân hoan vui mừng đi nhiễu xung quanh ba vòng rồi biến mất.

Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng, có người cấu nhiễm, có người thanh tịnh, cũng như Hoa sen mọc từ trong bùn, có cành hoa vươn lên khỏi mặt bùn, có cành hoa đang nằm trong mặt nước không vươn lên mặt bùn, có cành sen nằm sâu dưới đáy. Căn cơ của chúng sanh cũng như những cành sen này, có người không ô nhiễm, có người ít bụi nhiễm, có người bụi nhiễm rất nhiều, có cao có thấp khác nhau. Qua hình ảnh hoa sen đó, Ngài khởi ý niệm nên đi đến giáo hóa cho người nào. Ngài liền nghĩ ngay đến những vị từng là đạo sư của Ngài: Àlàra Kàlàma và Uddaka Ràmaputta. Khi biết rằng cả hai đều từ trần, Ngài liền nghĩ ngay đến năm vị đồng tu khổ hạnh với Ngài thuở trước hiện đang trú tại vườn Lộc Uyển gần Ba-la-nại (Benares). Ngài thầm nghĩ, nếu năm vị ấy khi nghe được những lời dạy này sẽ có thể thấu hiểu được một cách dễ dàng.

Trong niềm hân hoan đó, Ngài liền rời cội Bồ-đề đi đến thành Ba-la-nại. Sự quyết định giảng pháp này đã đánh dấu con đường chuyển giao giữa mê và ngộ, giữa khổ đau và hạnh phúc. Như vậy từ đây, chánh pháp được bậc giác ngộ chuyển khai sau khi đã hành trì tu tập, thế gian từ đây không còn sống trong ngục tù, không bị ràng buộc bởi bọn ma vương cám dỗ, tài, sắc, danh, thực, thùy, không sống trong vòng kiềm tỏa câu thúc của khát ái, lệ thuộc vào khổ đau. Ánh sáng giác ngộ sẽ phá tan màn vô minh u tối đã bao trùm từ vô lượng kiếp.

Sau đó, Ngài khởi hành đi đến Benares, trên đường đi Ngài gặp một du sĩ ngoại đạo theo trường phái cực đoan. Vị này thấy trên khuôn mặt Ngài lộ vẻ hân hoan, thanh thoát nên đã chú ý và hỏi bậc Đạo sư của Ngài là ai, và giáo Pháp mà Ngài vừa chứng ngộ được học như thế nào? Đức Phật đầy lòng tự tin tuyên bố Ngài đã được giải thoát nhờ ái diệt, hữu diệt, thủ diệt. Ngài là vị thắng giả trên chiến trường. Vì vậy, Ngài không có Đạo sư, mà chính Ngài là bậc Đạo sư. Nghe điều này, Upaka tuy cảm phục nhưng vội lắc đầu và rẽ vào con đường khác. Vậy tại sao đức Phật lại lạc quan như thế, dám tuyên bố với vẻ đầy tự tin như vậy, mới nhìn vào ai cũng có thể dễ hiểu lầm, nhưng thực tế đó mới là điều mà chúng ta cần phải suy nghĩ. Đối với một bậc đã giải thoát khỏi ái nhiễm, đã thoát ly mọi triền phược, thì không còn e ngại khuất phục hay sợ hãi trước một thế lực nào, vì người này đã làm chủ được tâm mình, làm chủ được tư tưởng của mình thì còn ai là người có thể điều khiển được tâm tư an tịnh đó. Một bậc giác ngộ tượng trưng cho một hạng người độc nhất, trên thực tế tuy có hình dáng bề ngoài như mọi người, vẫn chịu biến hoại về thể chất, nhưng vị ấy không còn bị chi phối trong vòng sanh tử luân hồi, đã thực sự thoát ly mọi ái nhiễm. Hình tượng oai nghi này đã đập mạnh vào trong tiềm thức của năm anh em Kiều-trần-như, phá vỡ những thành kiến cống cao ngã mạnniềm tin không tốt về con đường mà Ngài đã chọn trước đây. Năm vị này đã đến cầm lấy những y bát, soạn chỗ ngồi, lấy nước rửa chân và xưng gọi Ngài là bậc Hiền giả như trước đây đã từng xưng gọi. Đức Thế Tôn không chấp nhận điều này và tuyên bố: “Này các ông, đừng gọi Như LaiHiền giả. Này các ông, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác”.

Lời tuyên bố ấy đã mở đầu một pháp thoại, hé lộ con đường bất tử. Con đường khước từ thái độ cực đoan tham đắm vào cuộc sống sung túc để hướng tâm đến việc tìm ra chân lý. Chân lý chỉ khai mở khi tâm hồn con người biết quay về, biết nhìn lại chính mình, cùng tu tập và gọt giũa tất cả những cấu uế đã định hình trong tâm từ xưa đến nay. Chân lý đó được Ngài khai mở trong thời điểm thích hợp, làm sáng tỏ thêm mọi việc thông qua bài pháp thoại đầu tiên, khởi đầu sự nghiệp hoằng pháp của Ngài mà đời sau gọi đó là thời pháp “sơ chuyển Pháp luân”. Bài pháp này được đức Thế Tôn trình bày trên phương diện, bác bỏ hai lối sống cực đoan đó là con đường khổ hạnh ép xáccon đường hưởng thọ dục lạc, rồi Ngài khuyến tấn hành giả hãy thực tập theo con đường Trung đạo, đồng thời Ngài trình bày về hệ thống bốn chân lý, đó là một giáo lý căn bản, hàm tàng những yếu nghĩa xuyên suốt về bản chất của cuộc đời hạnh phúc hay khổ đau, chứa đựng sự tinh vi am tường một cách rốt ráo:

“Có hai cực đoan, này các Tỳ-kheo, mà người xuất gia không nên hành trì. Đó là hai lối sống cực đoan? Những gì là hai. Một là đắm mình vào dục lạc, thấp kém, tầm thường, hạ liệt, không xứng đáng bậc Thánh, không lợi ích. Hai là chuyên tâm khổ hạnh ép xác, gây đau khổ cho thân tâm, không xứng đáng bậc Thánh, và cũng không có lợi ích. Này các Tỳ-kheo, Như Lai đã tránh xa hai cực đoan này, và tìm ra con đường Trung đạo, con đường này chính là con đường khiến cho ta thấy và biết, con đường đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.”

Sau khi tuyên bố hai lối sống cực đoan đem lại tai hại, đức Thế Tôn thuyết giảng con đường Trung đạo thông qua bốn hành tướng chân lý nhiệm mầu:

“Này các Tỳ-kheo, đây là thánh đế về khổ: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ; gần gũi những gì ta không thích là khổ, cầu không được là khổ, xa lìa những gì ta thích là khổ. Tóm lại, chấp thủ năm uẩn là khổ.

Này các Tỳ-kheo, đây là Thánh đế về nguyên nhân đưa đến đau khổ. Đó chính là khát ái đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm kiếm lạc thú chỗ này chỗ kia, đó là dục ái, hữu áivô hữu ái.

Này các Tỳ-kheo, đây là Thánh đế về Khổ diệt, chính là sự đoạn trừ, diệt tận hoàn toàn khát ái đó, sự quăng bỏ nó, chấm dứt nó, xả ly nó, không chấp thủ nó.

Này các Tỳ-kheo, đây là thánh đế về con đường đưa đến khổ diệt. Đó là thánh đạo tám ngành, tức là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định”.

Năm Tôn giả chăm chú lắng nghe lời Ngài dạy. Chẳng bao lâu, năm Tôn giả Kiều-trần-như đoạn tận mọi ái nhiễm, chứng đắc các Thánh quả, trở thành các vị đệ tử đầu tiên trong giáo đoàn của đức Phật. Sau bài pháp đầu tiên, đức Phật tiếp tục giảng bài kinh Vô Ngã tướng, phủ nhận sự hiện hữu của tự ngã. Đây là giáo lý mang một ý nghĩa hết sức thiết thực, chỉ cho con người thấy rõ sự hiện hữu của mình trong cuộc thế nhân sinh là một tập hợp của năm uẩn. Chính điều này đi ngược lại ý tưởng đương thời, gây kinh ngạc trong hệ thống các giáo lý thần linh, đánh ngã mọi học thuyết chủ trương tự ngã là trường cửu hay đoạn diệt lúc bấy giờ.

Qua bài kinh Vô ngã, đức Phật đã mở ra một cái nhìn mới về con người, về cuộc đời. Con người không phải là một thực thể bất biến mà nó là duyên sinh. Con người chỉ là một tập hợp của năm thành tố, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nên không có một cái ngã thực hữu, thường hằng. Con người là sự kết hợp trọn vẹn hai mặt vận hành đó là thân thể vật lý và cấu trúc tâm lý mà không có một linh hồn-thực thể hằng biến như chủ trương của các học phái ngoại đạo lúc ấy. Mặt khác, con người sở dĩ đau khổ là do con người không hiểu rõ được bản chất của đau khổ, không hiểu rõ nguồn gốc đưa đến đau khổ. Đó là không thấy rõ sự biến chuyển, hoại diệt của năm uẩn; không thỏa mãn trước sự thay đổi của những tâm lý vọng cầu tham lam đắm nhiễm vào trong khoái lạc nhục dục lục trần, chấp chặt cho rằng cái thân năm uẩn này là thực có, là thường hằng, một khi nó mất đi thì tâm niệm đau khổ hiện ra.

Khi năm vị Tỳ-kheo nghe xong bài pháp thoại này, tâm của các vị ấy hoàn toàn ly nhiễm, thoát khỏi mọi lậu hoặc, và ngay lúc đó trở thành A-la-hán. Tri kiến hoàn toàn thanh tịnh, mênh mông sâu thẳm và hiểu các pháp một cách rốt ráo.

Qua bài pháp đầu tiên và bài pháp thoại thứ hai, chúng ta thấy sự thành công của đức Phật ngay buổi thuyết giáo đầu tiên. Ngài đi vào lòng quần chúng, đi vào tâm niệm đệ tử với việc phá vỡ tất cả khúc mắc của họ và trình bày lại những sở chứng của mình, chia sẻ cho mọi người cùng hiểu, cùng nắm bắt, cùng thực hành, chứ không phải là những lời dạy mang tính mơ hồ viễn vông. Giáo lý giác ngộ từ đó được vận hành soi sáng trên thế gian, hướng dẫn con người đi những bước đi an tịnh, chắc chắn, hỷ lạc, không ưu tư sầu muộn, đưa đến giải thoát cho bất cứ ai trong khi thâm nhập, tu tập, hành trì giáo lý với tuệ quán thấy được sự thật của khổ đau và nguồn gốc của khổ đau, rồi hướng tâm tới tìm cầu con đường thoát khỏi khổ đau và thực hành phương pháp thoát ly khổ đau. Cuộc hành trình ấy đã thể hiện hai phương diện khổ đau mà thế gian đang phải gánh chịu, và đằng khác là sự thoát ly khổ đau của các bậc Thánh sau khi hành trì Bát thánh đạo, thoát ly hai lối sống cực đoan. Điều này có thể hiểu rằng, bài pháp đầu tiên này mang một ý nghĩa hết sức thiết thực cho kiếp sống nhân sinh, đã mở ra một thông điệp nhân bản cho con người, định hướng cho con người thấy rõ khổ đau và hạnh phúc nằm trong tầm tay của mình, trong cuộc sống hiện hữu của mình chứ không nằm ở đâu xa xôi như thiên đường hay cảnh giới ảo tưởng nào đó. Chỉ khi nào con người biết dừng lại, với tuệ quán nhìn thấy rõ bản chất của nó, biết quay trở lại với bản tâm của mình, thấy rõ thực tướng của năm uẩn tạo nên khổ đau, nguyên nhân khổ đau, khổ đau biến mất và con đường đưa đến đoạn diệt khổ đau thì con người mới đi được những bước đi thảnh thơi, tự tại trên mãnh đất tâm an lạc giải thoát. Bài Pháp đầu tiên và bài pháp thứ hai đã mở một lối đi cho những ai đang còn đắm chìm trong ngục tối vô minh, đang bị ràng buộc trong lệ tình dục nhiễm, hãy ý thức để quay về. Giáo pháp của đạo Phật từ nay sẽ rộng mở cho những ai biết quay đầu phản tỉnh, thiết tha mong cầu thoát khổ để được an vui.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11479)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12647)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12264)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11039)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10919)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13372)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11791)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13671)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11913)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11179)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12208)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12412)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20604)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12434)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12464)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11726)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11602)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22437)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13584)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29693)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11549)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16755)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12007)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16851)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12083)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17933)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12653)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13178)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14771)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22635)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10595)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14053)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13876)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13723)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13875)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13948)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14840)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13860)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18424)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22810)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 17329)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22420)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14269)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12592)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11176)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13217)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13114)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18804)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17184)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13512)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12926)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14704)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14662)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15882)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13523)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27445)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13244)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16734)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21400)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant