Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hành trình sơ chuyển Pháp luân của đức Phật

21 Tháng Chín 201000:00(Xem: 15441)
Hành trình sơ chuyển Pháp luân của đức Phật

Cuộc hành trình miên viễn của kiếp sống trầm luân sáu nẻo luân hồi đã thôi thúc rất nhiều người đi tìm những phương pháp để thoát ly khổ não. Hạnh phúc và khổ đau là hai thực trạng của cuộc sống mà con người luôn đề cập tới. Nhưng để biết được hạnh phúc là gì thì con người phải trực nhận ra được bản chất của khổ đau như thế nào rồi mới bàn tới phương pháp giải quyết khổ đau.

Xã hội Ấn Độ là một trong những quốc gia sản sinh ra nhiều nhân tài, nhiều triết gia, và cũng là nơi rất phức tạp trên các lãnh vực kinh tế chính trị, văn hóa, ngôn ngữ, triết lý và tôn giáo… Chính vì sự đa dạng như vậy, nên khổ đau và hạnh phúc sẽ được đề cập đến nhiều hơn. Khổ đau như một sự thật hiển nhiên của cuộc đời mà bất cứ một thời đại nào, một quốc gia nào, một con người nào không biết và không cảm nhận, khổ đau đó không chỉ đúng với ngày xưa mà còn đúng cả hôm nay và mai sau.

Cũng ở nơi đây, cách đây trên 2500 năm, xã hội hình thành nên những giáo phái, những học thuyết với những chủ trương khác nhau để lý giải về hai nhu cầu bức thiết, không định hình được đâu là chân là giả, khiến khổ đau vẫn hoàn là khổ đau và nó mãi vây lấy kiếp người chưa một lúc nào ngừng nghỉ. Chính trong thời điểm đó, trong bối cảnh tàn khốc đó, mọi người ai cũng mong chờ có một bậc vĩ nhân xuất hiện để giải thoát họ ra khỏi sự nô lệ của kiếp người. Đức Phật đã ứng hiện. Cả cuộc đời của Ngài luôn đi sâu vào quần chúng, tìm hiểu nỗi đau của chúng sanh rồi tìm ra cho mình một hướng đi đúng đắn, quyết định bỏ lại sau lưng tất cả mọi cám dỗ của dục lạc trần gian, cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan. Ra đi với nhiều thao thức mong sao chính bản thân mình tìm ra một con đường bất tử cứu nhân độ thế. Suốt cuộc hành trình ra đi trong tịch tĩnh, cuối cùng Ngài đã tìm ra được đạo lộ của cánh cửa vô sanh, cánh cửa mà từ đây chư thiênloài người sẽ không còn bơ vơ lạc lõng hay sống trong sự lo sợ của sanh già bệnh chết, thay vào đó là sự sống trong an lànhgiải thoát. Ngài đã giác ngộ sau quá trình tư duy bằng tuệ quán, suy nghiệm và không ngừng nỗ lực tu tập. Chính sự quyết định này đã mở con mắt tuệ cho chúng sanh, đập tan đi mọi thành kiến mê lầm chấp ngã đã hằn sâu trong vô lượng kiếp, khẳng định lại giá trị hạnh phúc, nhân bản của một con người từng đánh mất đi giá trị có trong tầm tay của mình.

Sau khi thành đạo dưới cội Bồ-đề, đức Thế Tôn băn khoăn: rằng nên hay không nên vận chuyển bánh xe pháp, hay là sẽ nhập Niết-bàn, bởi vì Giáo pháp Ngài vừa chứng ngộ không phải là một giáo pháp bình thườnggiáo lý vừa chứng ngộ đó là một giáo pháp thật thâm áo, khó thấy, khó hiểu, dựa trên thực nghiệm, tuyệt diệu, không thể do lý luận có thể giải thích, tế nhị, chỉ người trí mới thấu hiểu được. Một giáo lý chỉ có người trí mới thấu hiểu, chỉ có những con người ly trần diệt nhiễm mới liễu ngộ thì thử hỏi ở thế gian được bao nhiêu người. Điều này khiến cho Thế Tôn, bậc Vô thượng Chánh đẳng giác, đã khởi lên tâm niệm muốn nhập Niết- bàn. Trong các kinh điển Pàli, chúng ta thấy có ghi lại tâm trạng này dưới hình thức một cuộc đối thoại với Phạm thiên Sahampati. Rõ ràng, đức Phật muốn dấy lên sự xung đột giữa các tư tưởng nội tâm của Ngài trở thành dễ hiểu nên đã sử dụng hình ảnh vị Phạm thiên lừng danh xuất hiện để trình bày những tư tưởng tranh luận cuối cùng trước khi quyết định có nên vận chuyển bánh xe pháp hay không. Chính sự vận động đấu tranh tư tưởng cuối cùng này đã mở ra một con đường thênh thang cho chúng sanh sau này nương nhờ, khai mở con đường bất tử đang đợi chờ ở phía trước. Đức Phật bảo: “Thế giới này thích thú dục lạc, song giáo pháp của ta hướng đến viễn ly, ly tham, ái diệt. Giả sử ta thuyết giảng giáo pháp này, tức phải đi ngược dòng, và người đời không hiểu được ta, điều ấy sẽ gây khó nhọc lòng cho ta”. Vị Phạm thiên trả lời: “Thế giới sẽ hủy diệt nếu đấng Toàn giác không quyết định thuyết pháp. Do vậy, cầu xin đức Thế Tôn hãy thuyết pháp. Có những người ít nhiễm bụi trong mắt, nếu không được nghe Pháp, chúng sẽ sa đọa. Song nếu chúng nghe Pháp, chúng sẽ đạt giải thoát”. Qua lời đối thoại ngược trở lại đó, vị Phạm thiên đã làm sanh khởi lòng từ bi và tâm nguyện độ sanh nơi đức Phật. Ngài nhận ra được mục đích ra đời của Ngài, sự tu tập của Ngài trải dài từ vô lượng kiếp đến nay không phải chỉ tu cho riêng mình, cho cái thân thể nằm trong một trượng sáu này của mình mà sự ra đời đó vì an lạc cho chư thiên, vì lợi íchhạnh phúc cho chư thiênloài người. Giữa một xã hội rối ren, rối ren như một đống tơ vò, bao đau khổ triền miên quấn chặt trải trùm trên tâm tư kiếp người không thể nào vượt khỏi, chưa có một hình thái nào để định hướng, dẫn dắt chúng sanh đoạn trừ hay dứt khoát như vậy, thì ngay nơi đó, ngay chính trong sự khổ đau cùng cực đó, sự hiện hữu của Ngài là một khởi điểm của ánh sáng chân lý, ánh sáng giải thoát giác ngộ, mở ra một chân trời thoáng đãng, thanh thản, nhẹ nhàng, khai triển hiển bày một thông điệp hòa bình nhân bản, tình thươngtrí tuệ. Sự hiện hữu của Ngài đã rống lên tiếng rống sư tử, cảnh tỉnh cho những ai đang sống trong dục vọng ý thức được rằng, mọi huyễn tướng của ràng buộc, mọi bóng tối của vô minh đang hiện bày từ đây sẽ đi lụi dần vào bóng đêm và sẽ chuyển hóa trong ánh sáng nhiệm mầu. Vì thế, Ngài đã tuyên dương Pháp thoại: “Cánh cửa bất tử sẽ rộng mở cho những ai muốn nghe pháp”. Ngài đồng ý với lời thỉnh cầu của Phạm thiên và sẽ lên đường thuyết pháp. Phạm thiên hân hoan vui mừng đi nhiễu xung quanh ba vòng rồi biến mất.

Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng, có người cấu nhiễm, có người thanh tịnh, cũng như Hoa sen mọc từ trong bùn, có cành hoa vươn lên khỏi mặt bùn, có cành hoa đang nằm trong mặt nước không vươn lên mặt bùn, có cành sen nằm sâu dưới đáy. Căn cơ của chúng sanh cũng như những cành sen này, có người không ô nhiễm, có người ít bụi nhiễm, có người bụi nhiễm rất nhiều, có cao có thấp khác nhau. Qua hình ảnh hoa sen đó, Ngài khởi ý niệm nên đi đến giáo hóa cho người nào. Ngài liền nghĩ ngay đến những vị từng là đạo sư của Ngài: Àlàra Kàlàma và Uddaka Ràmaputta. Khi biết rằng cả hai đều từ trần, Ngài liền nghĩ ngay đến năm vị đồng tu khổ hạnh với Ngài thuở trước hiện đang trú tại vườn Lộc Uyển gần Ba-la-nại (Benares). Ngài thầm nghĩ, nếu năm vị ấy khi nghe được những lời dạy này sẽ có thể thấu hiểu được một cách dễ dàng.

Trong niềm hân hoan đó, Ngài liền rời cội Bồ-đề đi đến thành Ba-la-nại. Sự quyết định giảng pháp này đã đánh dấu con đường chuyển giao giữa mê và ngộ, giữa khổ đau và hạnh phúc. Như vậy từ đây, chánh pháp được bậc giác ngộ chuyển khai sau khi đã hành trì tu tập, thế gian từ đây không còn sống trong ngục tù, không bị ràng buộc bởi bọn ma vương cám dỗ, tài, sắc, danh, thực, thùy, không sống trong vòng kiềm tỏa câu thúc của khát ái, lệ thuộc vào khổ đau. Ánh sáng giác ngộ sẽ phá tan màn vô minh u tối đã bao trùm từ vô lượng kiếp.

Sau đó, Ngài khởi hành đi đến Benares, trên đường đi Ngài gặp một du sĩ ngoại đạo theo trường phái cực đoan. Vị này thấy trên khuôn mặt Ngài lộ vẻ hân hoan, thanh thoát nên đã chú ý và hỏi bậc Đạo sư của Ngài là ai, và giáo Pháp mà Ngài vừa chứng ngộ được học như thế nào? Đức Phật đầy lòng tự tin tuyên bố Ngài đã được giải thoát nhờ ái diệt, hữu diệt, thủ diệt. Ngài là vị thắng giả trên chiến trường. Vì vậy, Ngài không có Đạo sư, mà chính Ngài là bậc Đạo sư. Nghe điều này, Upaka tuy cảm phục nhưng vội lắc đầu và rẽ vào con đường khác. Vậy tại sao đức Phật lại lạc quan như thế, dám tuyên bố với vẻ đầy tự tin như vậy, mới nhìn vào ai cũng có thể dễ hiểu lầm, nhưng thực tế đó mới là điều mà chúng ta cần phải suy nghĩ. Đối với một bậc đã giải thoát khỏi ái nhiễm, đã thoát ly mọi triền phược, thì không còn e ngại khuất phục hay sợ hãi trước một thế lực nào, vì người này đã làm chủ được tâm mình, làm chủ được tư tưởng của mình thì còn ai là người có thể điều khiển được tâm tư an tịnh đó. Một bậc giác ngộ tượng trưng cho một hạng người độc nhất, trên thực tế tuy có hình dáng bề ngoài như mọi người, vẫn chịu biến hoại về thể chất, nhưng vị ấy không còn bị chi phối trong vòng sanh tử luân hồi, đã thực sự thoát ly mọi ái nhiễm. Hình tượng oai nghi này đã đập mạnh vào trong tiềm thức của năm anh em Kiều-trần-như, phá vỡ những thành kiến cống cao ngã mạnniềm tin không tốt về con đường mà Ngài đã chọn trước đây. Năm vị này đã đến cầm lấy những y bát, soạn chỗ ngồi, lấy nước rửa chân và xưng gọi Ngài là bậc Hiền giả như trước đây đã từng xưng gọi. Đức Thế Tôn không chấp nhận điều này và tuyên bố: “Này các ông, đừng gọi Như LaiHiền giả. Này các ông, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác”.

Lời tuyên bố ấy đã mở đầu một pháp thoại, hé lộ con đường bất tử. Con đường khước từ thái độ cực đoan tham đắm vào cuộc sống sung túc để hướng tâm đến việc tìm ra chân lý. Chân lý chỉ khai mở khi tâm hồn con người biết quay về, biết nhìn lại chính mình, cùng tu tập và gọt giũa tất cả những cấu uế đã định hình trong tâm từ xưa đến nay. Chân lý đó được Ngài khai mở trong thời điểm thích hợp, làm sáng tỏ thêm mọi việc thông qua bài pháp thoại đầu tiên, khởi đầu sự nghiệp hoằng pháp của Ngài mà đời sau gọi đó là thời pháp “sơ chuyển Pháp luân”. Bài pháp này được đức Thế Tôn trình bày trên phương diện, bác bỏ hai lối sống cực đoan đó là con đường khổ hạnh ép xáccon đường hưởng thọ dục lạc, rồi Ngài khuyến tấn hành giả hãy thực tập theo con đường Trung đạo, đồng thời Ngài trình bày về hệ thống bốn chân lý, đó là một giáo lý căn bản, hàm tàng những yếu nghĩa xuyên suốt về bản chất của cuộc đời hạnh phúc hay khổ đau, chứa đựng sự tinh vi am tường một cách rốt ráo:

“Có hai cực đoan, này các Tỳ-kheo, mà người xuất gia không nên hành trì. Đó là hai lối sống cực đoan? Những gì là hai. Một là đắm mình vào dục lạc, thấp kém, tầm thường, hạ liệt, không xứng đáng bậc Thánh, không lợi ích. Hai là chuyên tâm khổ hạnh ép xác, gây đau khổ cho thân tâm, không xứng đáng bậc Thánh, và cũng không có lợi ích. Này các Tỳ-kheo, Như Lai đã tránh xa hai cực đoan này, và tìm ra con đường Trung đạo, con đường này chính là con đường khiến cho ta thấy và biết, con đường đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.”

Sau khi tuyên bố hai lối sống cực đoan đem lại tai hại, đức Thế Tôn thuyết giảng con đường Trung đạo thông qua bốn hành tướng chân lý nhiệm mầu:

“Này các Tỳ-kheo, đây là thánh đế về khổ: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ; gần gũi những gì ta không thích là khổ, cầu không được là khổ, xa lìa những gì ta thích là khổ. Tóm lại, chấp thủ năm uẩn là khổ.

Này các Tỳ-kheo, đây là Thánh đế về nguyên nhân đưa đến đau khổ. Đó chính là khát ái đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm kiếm lạc thú chỗ này chỗ kia, đó là dục ái, hữu áivô hữu ái.

Này các Tỳ-kheo, đây là Thánh đế về Khổ diệt, chính là sự đoạn trừ, diệt tận hoàn toàn khát ái đó, sự quăng bỏ nó, chấm dứt nó, xả ly nó, không chấp thủ nó.

Này các Tỳ-kheo, đây là thánh đế về con đường đưa đến khổ diệt. Đó là thánh đạo tám ngành, tức là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định”.

Năm Tôn giả chăm chú lắng nghe lời Ngài dạy. Chẳng bao lâu, năm Tôn giả Kiều-trần-như đoạn tận mọi ái nhiễm, chứng đắc các Thánh quả, trở thành các vị đệ tử đầu tiên trong giáo đoàn của đức Phật. Sau bài pháp đầu tiên, đức Phật tiếp tục giảng bài kinh Vô Ngã tướng, phủ nhận sự hiện hữu của tự ngã. Đây là giáo lý mang một ý nghĩa hết sức thiết thực, chỉ cho con người thấy rõ sự hiện hữu của mình trong cuộc thế nhân sinh là một tập hợp của năm uẩn. Chính điều này đi ngược lại ý tưởng đương thời, gây kinh ngạc trong hệ thống các giáo lý thần linh, đánh ngã mọi học thuyết chủ trương tự ngã là trường cửu hay đoạn diệt lúc bấy giờ.

Qua bài kinh Vô ngã, đức Phật đã mở ra một cái nhìn mới về con người, về cuộc đời. Con người không phải là một thực thể bất biến mà nó là duyên sinh. Con người chỉ là một tập hợp của năm thành tố, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nên không có một cái ngã thực hữu, thường hằng. Con người là sự kết hợp trọn vẹn hai mặt vận hành đó là thân thể vật lý và cấu trúc tâm lý mà không có một linh hồn-thực thể hằng biến như chủ trương của các học phái ngoại đạo lúc ấy. Mặt khác, con người sở dĩ đau khổ là do con người không hiểu rõ được bản chất của đau khổ, không hiểu rõ nguồn gốc đưa đến đau khổ. Đó là không thấy rõ sự biến chuyển, hoại diệt của năm uẩn; không thỏa mãn trước sự thay đổi của những tâm lý vọng cầu tham lam đắm nhiễm vào trong khoái lạc nhục dục lục trần, chấp chặt cho rằng cái thân năm uẩn này là thực có, là thường hằng, một khi nó mất đi thì tâm niệm đau khổ hiện ra.

Khi năm vị Tỳ-kheo nghe xong bài pháp thoại này, tâm của các vị ấy hoàn toàn ly nhiễm, thoát khỏi mọi lậu hoặc, và ngay lúc đó trở thành A-la-hán. Tri kiến hoàn toàn thanh tịnh, mênh mông sâu thẳm và hiểu các pháp một cách rốt ráo.

Qua bài pháp đầu tiên và bài pháp thoại thứ hai, chúng ta thấy sự thành công của đức Phật ngay buổi thuyết giáo đầu tiên. Ngài đi vào lòng quần chúng, đi vào tâm niệm đệ tử với việc phá vỡ tất cả khúc mắc của họ và trình bày lại những sở chứng của mình, chia sẻ cho mọi người cùng hiểu, cùng nắm bắt, cùng thực hành, chứ không phải là những lời dạy mang tính mơ hồ viễn vông. Giáo lý giác ngộ từ đó được vận hành soi sáng trên thế gian, hướng dẫn con người đi những bước đi an tịnh, chắc chắn, hỷ lạc, không ưu tư sầu muộn, đưa đến giải thoát cho bất cứ ai trong khi thâm nhập, tu tập, hành trì giáo lý với tuệ quán thấy được sự thật của khổ đau và nguồn gốc của khổ đau, rồi hướng tâm tới tìm cầu con đường thoát khỏi khổ đau và thực hành phương pháp thoát ly khổ đau. Cuộc hành trình ấy đã thể hiện hai phương diện khổ đau mà thế gian đang phải gánh chịu, và đằng khác là sự thoát ly khổ đau của các bậc Thánh sau khi hành trì Bát thánh đạo, thoát ly hai lối sống cực đoan. Điều này có thể hiểu rằng, bài pháp đầu tiên này mang một ý nghĩa hết sức thiết thực cho kiếp sống nhân sinh, đã mở ra một thông điệp nhân bản cho con người, định hướng cho con người thấy rõ khổ đau và hạnh phúc nằm trong tầm tay của mình, trong cuộc sống hiện hữu của mình chứ không nằm ở đâu xa xôi như thiên đường hay cảnh giới ảo tưởng nào đó. Chỉ khi nào con người biết dừng lại, với tuệ quán nhìn thấy rõ bản chất của nó, biết quay trở lại với bản tâm của mình, thấy rõ thực tướng của năm uẩn tạo nên khổ đau, nguyên nhân khổ đau, khổ đau biến mất và con đường đưa đến đoạn diệt khổ đau thì con người mới đi được những bước đi thảnh thơi, tự tại trên mãnh đất tâm an lạc giải thoát. Bài Pháp đầu tiên và bài pháp thứ hai đã mở một lối đi cho những ai đang còn đắm chìm trong ngục tối vô minh, đang bị ràng buộc trong lệ tình dục nhiễm, hãy ý thức để quay về. Giáo pháp của đạo Phật từ nay sẽ rộng mở cho những ai biết quay đầu phản tỉnh, thiết tha mong cầu thoát khổ để được an vui.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7597)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6123)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9988)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7101)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7334)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6994)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9364)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5845)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7109)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6532)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6113)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7172)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14396)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20458)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9477)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7882)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8195)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7457)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9380)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7467)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7489)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7675)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9482)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8792)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7394)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7966)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7036)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7684)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9870)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8291)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8840)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7692)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8844)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8665)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 8009)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9024)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9437)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8758)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8890)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7231)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9194)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8609)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7899)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9635)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10183)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8773)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8386)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7641)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9340)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7490)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15364)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7308)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8490)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12246)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7314)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11500)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8321)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8046)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7915)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8949)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant