Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Về một bức tranh của Phật Thích Ca

12 Tháng Hai 201200:00(Xem: 14557)
Về một bức tranh của Phật Thích Ca

Lời Ban Biên Tập TVHS:

Để trả lời nghi vấn của một số độc giả về một bức tranh đen trắng vẽ Đức Phật Thích Ca khi Ngài còn tại thế (khoảng năm 41 tuổi) do một đệ tử của Ngài là Phú Lâu Na (Purna) vẽ, chúng tôi đã liên lạc với tác giả quyển sách Mùi Hương Trầm, GSTS. Nguyễn Tường Bách, người đã đề cập đến bức tranh vẽ này trong quyển sách của ông. Tác gỉa đã gửi cho chúng tôi bài đề ngày 16-1-2003 trả lời ông Vương Như Dương Chuyết Lão, người cũng có thắc mắc tương tự. BBT/TVHS xin cảm ơn tác
giả quyển sách Mùi Hương Trầm và bài viết này. Riêng về bức tranh vẽ màu được một Phật tử Trung Hoa làm lại, đưa mầu vào và ghi thêm chữ Hán (dòng chữ Hán bên trên là Thích Ca Mâu Ni Phật và hai hàng chữ Hán hai bên là bài kệ lấy từ kinh Kim Cang: "Nhất thiết hữu vi pháp/ Như mộng, huyễn, bào, ảnh/ Như lộ diệc như điện/ Ưng tác như thị quán." Mời quý độc giả xem tiếp bài viết của GSTS. Nguyễn Tường Bách: Về Một Bức Tranh Của Phật Thích Ca

VỀ MỘT BỨC TRANH CỦA PHẬT THÍCH CA
Nguyễn Tường Bách

Trước hết, người viết bài này xin trân trọng cám ơn những nhận xét đầy khích lệ của tác giả Vương Như Dương Chuyết Lão về “Mùi Hương Trầm“. Những phê bình tốt đẹp đó đem lại thêm cho người viết lòng tri ân về những nhân duyên sâu kín đã tạo tác nên tác phẩm này, trong đó người viết chỉ làm một nhiệm vụ duy nhất là viết lại những gì mình từng thấy, từng nghe, từng đọc.

Trong bài viết, tác giả Vương Như Dương Chuyết Lão nêu nghi vấn về một tấm hình của đức Thích-ca trích đăng trong “Mùi Hương Trầm“. Tác giả nêu câu hỏi, phải chăng bức hình này đích thực là từ thời lúc Phật còn tại thế truyền lại, do đệ tử của Ngài là Phú-lâu-na (Purna) vẽ lúc Ngài khoảng 41 tuổi. Nghi vấn này cho ta thấy cặp mắt sắc bén của tác giả Vương Như Dương Chuyết Lão, nó đòi hỏi một câu trả lời thành tâm và nghiêm túc.

blank

Phật Thích-ca lúc 41 tuổi

Trước hết, bức hình này gây nhiều sự kinh ngạcthú vị cho người xem, trong đó có tác giả của “Mùi Hương Trầm”. Tất cả những hình tượng khác của Phật Thích-ca đều có tính chất tượng trưng. Chỉ duy nhất bức hình trên đây trình bày Ngài như một con người bằng xương bằng thịt. Bức hình này có thật không?

Về bức hình này cũng như về nhiều chi tiết khác trong “Mùi Hương Trầm“, tác giả phải dựa vào các nguồn thông tin khác, nhất là kinh sách, tư liệu của các tác giả khác, chứ không được thấy tận mắt. Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982). Thiền sư Deshimaru đến Pháp năm 1967 và xuất bản tác phẩm đầu tay nói trên vào năm 1969. Tác phẩm này cũng đã được Ngô Thành Nhân/Trần Ðình Cáo dịch ra Việt ngữ dưới tên “Chân Thiền“ và xuất bản năm 1992. Tài liệu thứ hai là của thiền sư Tinh Vân (Hsing Yun). Thiền sư Tinh Vân, sinh năm 1927 tại Trung Quốc, là tổ thứ 48 của dòng Lâm Tế. Thiền sư Tinh Vântác giả của gần 30 tác phẩm, sáng lập hội Buddha's Light International Association (BLIA) và hiện nay đi du hóa trên toàn thế giới.

Trong các tác phẩm của Tinh Vân ta tìm thấy một tài liệu mang tên Seeing the Buddha[1][1]. Trong tác phẩm này Tinh Vân luận giải rất hay về các loại “thân“ của Phật, từ tranh tượng thông thường đến các dạng “hiện tướng“ khác nhau của Pháp thân Phật. Ðặc biệt, dựa trên kinh A-hàm, Tinh Vân cho hay, bức tượng đầu tiên của Phật là do nhà vua Udayana của nước Kausambi cho tôn tạo lúc Ngài còn tại thế. Truyền thuyết kể lại, lúc Phật đến cung trời Tam thập tam để giảng pháp cho mẹ, nhà vua cho đẽo bức tượng bằng gỗ chiên đàn để tưởng nhớ đến Phật. Sau ba tháng, lúc Phật trở lại thế gian, bức tượng trở nên sống động và đến “chào“ Ngài. Phật mỉm cười nhìn tượng và nói: “Ba tháng qua chắc ngươi mệt lắm nhỉ!“. Sau nhà vua Udayana, vẫn theo Tinh Vân trích kinh A-hàm, nhà vua Ba-tư-nặc của nước Kiều-tát-la và trưởng giả Cấp Cô Ðộc cũng cho đúc tượng của Phật.

Cũng trong tác phẩm này, Tinh Vân viết thêm: “Trong những năm qua, chúng ta được nghe có một bức tranh của Phật còn xưa hơn cả bức tượng đầu tiên. Viện Bảo tàng Anh quốc tại Luân Ðôn có một sưu tập gồm nhiều bức tranh của Phật. Trong những bức tranh đó có một bức mà viện bảo tàng tôn quí nhất. Ðó là một bức tranh vẽ Phật lúc Ngài 41 tuổi. Bức tranh do Phú-lâu-na vẽ, một vị đệ tử của Phật và màu sắc (của bức tranh) ngày nay vẫn còn sinh động. Hình chụp của bức tranh này hiện nay được lưu hành tại Nhật và Ðài Loan“.

Như thế, thiền sư Tinh Vân cũng chỉ nghe nói đến bức tranh này chứ chưa được thấy tận mắt. Người viết bài này cũng chưa có dịp đến viện bảo tàng British Museum để tìm kiếm bức tranh nọ, nhưng đã lục lọi trên Internet, vào trong các bộ sưu tập tranh của viện bảo tàng nhưng cũng không thấy bức tranh nọ được trưng bày trong mạng. Vì thế lai lịch bức tranh, liệu nó có thật hay không, vẫn còn là một nghi vấn. Người ta chỉ biết chính xác là rất nhiều cổ vật của Ấn Ðộ được mang về Anh vì Ấn Ðộ một thời là thuộc địa của Anh, và không phải cổ vật nào cũng được trình bày cho công chúng xem. Do đó, nghi vấn này không biết bao giờ mới giải đáp chính xác được. Ðộc giả nếu có ai đã từng xem được bức tranh hay có thông tin gì về nó, xin thông báo cho chúng ta được biết chung.

Trong bài này, ta hãy thử tìm hiểu thêm các nguồn tài liệu khác để có một cái nhìn khách quan về niên đại của tranh tượng về Ðức Phật. Một nguồn thông tin cho hay, tượng Phật cổ nhất được tìm thấy là tại Tích Lan, với niên đại của thế kỷ thứ ba trước công nguyên. Theo những tài liệu khác, tại Gandhara (Tây bắc Ấn Ðộ, ngày nay thuộc về Afghanistan), lúc vùng này bị Hy Lạp chiếm đóng trong khoảng thế kỷ thứ nhất trước công nguyên đến thế kỷ thứ sáu sau công nguyên, con người bắt đầu trình bày Ðức Phật với nhân trạng, theo truyền thống Hy Lạp. Theo nhà Phật học W.Schumann[2][2], hình ảnh đức Phật bắt đầu được tôn tạo khoảng 450 năm sau ngày Ngài diệt độ. Theo L.M.Joshi thì bức tượng Phật cổ nhất được tìm thấy tại Mathura (Bắc Aán) với niên đại của thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Nói chung các nhà nghiên cứu khoa học đều thừa nhận là không thể biết đích xác và cũng không hoàn toàn thống nhất về niên đại của tranh tượng đầu tiên của Ðức Phật.

Ngoài vấn đề niên đại, các nhà nghiên cứu phương Tây có những lời giải thích hữu lý về vai trò của tranh tượng. Theo họ, ngày xưa đối tượng để thờ cúng không phải là tranh tượng mà là xá lợi và các tháp chứa đựng xá lợi. Theo thời gian, quan niệm thờ cúng xá lợibảo tháp hẳn không thể tồn tại được lâu, nhất là với sự phát triển rộng khắp của đạo Phật. Ngày nay người ta phát hiện một văn bản du nhập vào Trung quốc năm 148 sau công nguyên, trên đó có ghi: “...đệ tử đích thực của Phật cần đảnh lễ tranh tượng của Ngài mỗi sáng mỗi tối và thường xuyên đốt đèn để tỏ lòng tôn kính Ngài...“[3][3].

Với những lẽ trên, ta có thể chắc chắn tranh tượng đức Phật đã hình thành chậm nhất từ đầu công nguyên. Ðó là điều khoa học có thể chứng minh. Còn các bức tượng bằng gỗ và bằng vàng mà Tinh Vân nói đến, bức tranh vẽ đức Phật của Phú-lâu-na mà cả hai thiền sư khả kính Taisen Deshimaru lẫn Tinh Vân nhắc nhở thì sao? Nói một cách nghiêm túc, các tác phẩm nghệ thuật đó chưa được chính thức khẳng định và thừa nhận. Liệu một ngày nào đó, bảo tàng viện của Luân-đôn sẽ trình bày bức tranhPhật tử có thể chiêm bái bảo vật vô giá nói trên, điều đó cần một nhân duyên lớn.

Thế nhưng, trong lúc chờ đợi, có lẽ ta nên nghĩ như Tinh Vân trong tác phẩm Seeing the Buddha. Theo đó, Thân Phật chỉ là Ứng thân của Ngài, bức tranh (nếu có) lại càng là một phần của Ứng thân. Còn Pháp thân của Ngài là đang ở khắp nơi và hiện hữu trong từng khoảnh khắc.

NTB (16.1.03)

Bản PDF: VỀ MỘT BỨC TRANH CỦA PHẬT THÍCH CA (Nguyễn Tường Bách)


[1][1] http://www.blia.org/english/publications/booklet/pages/21.htm

[2][2] W.Schumann, Buddhistische Bilderwelt, Diederichs Verlag 1986

[3][3] Theo L.M.Joshi, Buddhistische Kunst und Architektur, trích trong Die Welt des Buddhismus, Orbis Verlag 2002

 

Bài / Sách liên quan đến chủ đề:
MÙI HƯƠNG TRẦM - Nguyễn Tường Bách

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12282)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11946)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12842)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26710)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13104)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27098)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32927)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31733)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32632)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13052)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12191)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17561)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18787)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12600)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11803)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13157)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12271)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12531)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11691)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 12033)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10652)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10955)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28391)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11201)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11414)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13622)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11068)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11468)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10938)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11228)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26425)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12431)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14926)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11102)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20408)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12402)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11525)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10806)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 24000)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11903)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12360)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12886)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11104)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38792)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10598)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12257)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17772)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25148)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10584)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10815)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12089)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11380)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11644)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14768)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21482)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9951)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11300)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27445)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11209)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11884)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant