Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh A Hàm Với Phật Giáo Nhân Gian

15 Tháng Hai 201200:00(Xem: 12080)
Kinh A Hàm Với Phật Giáo Nhân Gian


KINH A HÀM VỚI PHẬT GIÁO NHÂN GIAN

Hoằng Ấn trước tác; Không Nguyên dịch

 --- o0o ---

 

Kinh A Hàm có bốn loại, Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A HàmTăng Nhất A Hàm. Vì sao nói kinh A Hàm có quan hệ mật thiết với Phật giáo nhân gian. Từ lâu, người ta thường nghĩ rằng, kinh A Hàm thuộc giáo lý Phật giáo nguyên thủy ở các quốc gia Phật giáo Nam truyền. Nhưng kỳ thực, Phật giáo từ khi truyền vào Trung Quốc từ đời Đông Hán, thì quả vị A la hán được xem là mục đích tối hậu, đó là tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy. Ngày nay, giới Phật giáo quan niệm thế nào về tư tưởng Phật giáo phát triển và tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy? Trên thực tế, tên gọi Đại, Tiểu thừa chỉ tùy thuộc sự biến thiên của lịch sử. Khi Đức Phật còn tại thế thì không có hiện tượng này, tất cả kinh Phật đều được hình thành theo dòng chảy của lịch sử, tức là sau khi Đức Phật diệt độ, các đệ tử biên tập những lời dạy từ kim khẩu của Đức Phật mà thành. Những kinh kết tập sớm gọi là kinh điển Nguyên thủy, kinh kết tập muộn gọi là kinh điển Đại thừa. Nếu hiểu được như thế mới không bị rơi vào thiên kiến khi xem kinh A Hàm. Nguyên nhân kinh A Hàm được xem là kinh Tiểu thừa chính là sự hưng thịnh của Thiền tôngTịnh Độ tông vào thời đại Tùy Đường, đặc biệttư tưởng của Hoa NghiêmThiên Thai tông. Mấy trăm năm gần đây, tư tưởng của những tông phái này được nhiều người công nhận là do sự thành tựu của khảo chứng lịch sử. Vào thế kỷ XX, nghiên cứu học thuật của Phật giáo thế giới đối với việc tuyên dương truyền bá tư tưởng Phật Đà, đã bước vào lĩnh vực mới, nhưng người ta lại phủ định và quay mặt với tinh hoa truyền thống, vì họ cho rằng, Đức Phật là thần hay là người, cảnh giới giải thoát của Ngài ra làm sao? Giới Phật giáo ngày nay đối với kinh Phật đều có cách nhìn mới, quan điểm tu hành cũng trở nên đổi mới khác lạ, chúng ta sẽ lần lượt thảo luận. Trên đây là địa vị lịch sửý nghĩa kinh A Hàm trên phương diện lịch sử văn hiến. Tiếp theo là khảo cứu kết cấu phong cách của kinh A Hàm, để tìm hiểu đặc tính Phật giáo nhân gian.

Kết cấu kinh điển giữa Đại, Tiểu thừa Phật giáo không giống nhau. Kinh điển Tiểu thừa thường thuyết minh rõ địa điểm, tên người, thời gian; kinh Đại thừa thường không đầy đủ như kinh điển Nguyên thủy. Đặc biệt kinh A Hàm thuyết minh rõ địa điểm, đối tượng, do vậy có thể thấy rõ được tính cách nhân gian của kinh A Hàm. Trong Diệu Vân tập, ngài Ấn Thuận nói rằng: "Kinh điển Phật giáo Đại thừa là nghệ thuật hóa, kinh điển Tiểu thừa Phật giáo là khoa học hóa". Cảnh giới tôn giáo thường là nơi ký thác tâm linh của tín đồ, ở trong môi trường hiện thực nhân sanh có lẽ không thể tồn tại, nhưng trong thế giới tâm linh của tín đồ, thì đó là khả năng chân thật, chẳng hạn như vào cảnh giới thiền định thì có thể thấy được trong mười phương thế giớiĐức Phật đang thuyết pháp, nhưng người chưa đạt cảnh giới này thì không thể tin nổi. Cho nên không thể vì nghệ thuật hóa của Đại thừa mà phủ định thế giới đó. Vì thế, nếu đọc kinh điển Đại thừa, cần phải đọc bằng tất cả tâm linhtrí tuệ, mới có thể lĩnh hội được những bí yếu sâu xa của kinh. Tuy nhiên đối với cảnh giới miêu tả thì không nên quá chấp trước.

Kinh A Hàm thường mang màu sắc sống động của cuộc sống đời thường, giải quyết triệt để những vấn đề như vũ trụ lớn bao nhiêu, bắt đầu và kết cục của nó như thế nào. Đối với vấn đề thuộc hình nhi thượng này, Phật giáo trả lờivô ký, tức là không có đáp án, do đây có thể hiểu được tính chất vô hình nhi thượng học của giáo lý Nguyên thủy. Nhưng khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc, lại ảnh hưởng Huyền học (Dịch, Lão, Trang), cho nên Phật học Trung Quốc lại mang tính chất Huyền học hóa, là một Phật giáo Huyền học hóa thoát ly Phật giáo Nguyên thủy. Một sự thật đặc biệt được xác nhận trong kinh A Hàm là thường bàn về chuyện tu hành ngay trên thực tế cá nhân. Dù người có thần thông quảng đại cũng không thể đoạn tận phiền não, và người đoạn tận phiền não cũng không nhất địnhthần thông. Cho nên không thể xem việc có hay không có thần thông để phán đoán mức độ thực chứng của nội tâm. Đặc điểm của Phật giáo Nguyên thủy là nhắm thẳng vào thân tâm của con người để thảo luận vấn đề, mà thân tâm chính là nội dung của sắc thọ tưởng hành và thức. Đây là những giai đoạn tu học quan trọng của người xuất gia. Có thể thấy rằng lúc bấy giờ Đức Phật hóa độ bất kỳ đối tượng nào cũng đều khế hợp với căn cơ, không nói những chuyện hư vô xa vời thực tế mà mang màu sắc của nhân gian đời thường và quá đỗi thân thiết.

Kinh A Hàm nói rằng, ba pháp mà không đoạn thì không thể nào thoát ly sinh lão bệnh tử, ba pháp đó là tham dục, sân nhuếngu si; muốn đoạn tham sân si thì trước hết phải đoạn thân kiến, giới cấm thủ kiến. Đây là tinh thần tiệm tiến trên bước đường tu học.

Tam chướng trong nguyện tiêu tam chướng chư phiền não là chỉ hoặc nghiệp khổ, trước tiên cần phải đoạn hoặc (thân kiến, vô minh hoặc), mới có thể tiêu trừ nghiệp khổ, phương pháp là tu duyên khởi quán, duyên khởi là quan hệ giữa điều kiện với điều kiện, sự thành bại tụ tán của đời người đều tùy thuộc vào nhân duyên. Tại đây, cần hiểu rằng, những thí dụ trong kinh A Hàm là nhằm thuyết minh bản hoài chân chính của Phật. Tri kiến của Phật rất thích ứng với văn hóa Ấn Độ, chẳng hạn như từ kinh A Hàm có thể biết được rằng, người xuất gia ngày xưa cũng đã trì mật chú, nguyên nhân là do Ấn Độ thuộc vùng nhiệt đới, bấy giờ nhiều chúng xuất gia đang trong lúc ngồi thiền lại bị rắn độc cắn, do vậy mà Đức Phật dạy rằng, trước khi tọa thiền, cần phải trì chú để tránh khỏi rắn cắn; lại kiết hạ an cư vốn là pháp tu của ngoại đạo, chúng xuất gia đi khất thực nhằm mùa mưa thường bị bùn đất lấm thân, vả lại mùa mưa thì sanh nhiều trùng, do đó đi lại nhiều thì rất dễ đạp chết côn trùng, khiến thế gian cơ hiềm, do vậy Đức Phật mới chế định pháp kiết hạ an cư cho người xuất gia.

Đọc trực tiếp kinh A Hàm thì không dễ gì hiểu những ẩn ý thâm sâu, vì vậy muốn thâm nhập Phật pháp, thì cần phải giác ngộ những đạo lý này. Lại như Tứ Thánh đế, Mười hai nhân duyên, Tam pháp ấn đều là những tư tưởng căn bản của Phật giáo. Nếu muốn nghiên cứu Phật giáo Nguyên thủy thì cần phải chú ý những biểu hiện hành vi nhân vật trên chiều dài hoạt động lịch sử, nếu được vậy thì đọc kinh A Hàm mới không bị thiên kiến lệch lạc. Cho nên không luận người xuất gia chứng quả hay không chứng quả, vấn đề tùy duyên độ chúng vẫn rất được đề cao. Kinh A Hàm đề cập đến những vị Đại Bồ tát. Có thể thấy những quan niệm này có mặt trong kinh điển Phật giáo ngay từ thời kỳ đầu. Do Đức Phật xuất hiệnẤn Độ, lúc bấy giờ tư tưởng giải thoát của Áo nghĩa thư của Bà La Môn giáoyếm thế, chúng xuất gia đệ tử Phật đa phần cũng xuất thân từ những Sa môn yếm thế, nhưng một số Đại Tôn giả như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đã chứng quả A la hán, họ thường du hành trong nhân gian, giảng kinh, thuyết pháp. Cho nên khảo chứng những nhân vật trong kinh A Hàm có thể phát hiện được tinh thầncông hạnh sâu dày của một số Bồ tát, nếu cho đó không phải là tinh thần Đại thừa là một sai lầm. Chúng ta cần phải thay đổi những cách nhìn đối với kinh A Hàm sau khi ảnh hưởng Phán giáo của thời đại Tùy Đường. Ngoài ra, cảnh giới sơ thiền, nhị thiền như thế nào, kinh A Hàm đều có trình bày tường tận chi li và toàn diện.

Kinh A Hàm khi bàn đến những khái niệm như cảnh giới tu hành, hiện tượng, quán niệm đều trình bày một cách rõ ràng, chẳng hạn như sắc tức là tứ đại, đất nước gió lửa, bốn uẩn còn lại cũng phân tích rõ ràng. Theo Phật giáo, quá trình tu tập phải là quá trình dấn thân trên lộ trình Trung đạo, là tinh thần của giác ngộ. Giác có nghĩa là không trốn chạy bất kỳ cảnh giới nào, cho nên kinh A Hàm bảo chúng ta là phải nhận thức phiền não, như thật liễu tri, Đức Phật đã dùng sắc làm thí dụ, sự sanh khởi, sự đoạn diệt của sắc đều phải như thật tri, cũng chính là chỉ ra trong cảnh giớithống khổ hay sung sướng, thì luôn phải liễu tri bản chất của chúng để đối trịchuyển hóa. Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiếtchúng sanh có thể cảm nhận được ngay trong cuộc sống, là những gì vốn gắn liền với nhận thức của con người. Do đây có thể nói đó là màu sắc nhân gian của Phật giáo. Điều đáng tiếc là trong quá trình lịch sử phát triển của Phật giáo, đặc biệt là sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo lại ảnh hưởng Huyền học, cho nên Phật giáo Trung Quốc mang tinh thần Huyền học hóa.

Niết bàncảnh giới giải thoát. Kinh A Hàm chép rằng, có người hỏi, làm sao biết có Niết bàn, làm sao để chứng minh, bằng vào đâu mà Đức Phật nói Niết bànchân thật. Để giải quyết vấn đề này, Đức Phật từ quan điểm Vô thường, Vô ngã, Khổ và Không hướng dẫn họ tự tư duy. Đối với những người không tin Niết bàn, Đức Phật trước phân tích nhân quả thế gian, kế đến mới phân tích nhân quả xuất thế gian. Do thế gian thường chứa nhóm các nhân quả khổ, cho nên cứ mãi lang thang bất định trong chuỗi dài sanh tử. Xuất thế gian thường chứa nhóm những nhân lành, cho nên có khả năng vĩnh viễn đóng bít cửa ngõ sanh tử. Nghiên cứu nhân quả thế gianxuất thế gian chính là đứng trên lập trường duyên khởi. Sự xuất hiện của mỗi cá thể trên thế gian này chính là sự có mặt của tám khổ. Kinh A Hàm đã đề cập đến những thống khổthân tâm con người thường phải đối diện.

Từ quan điểm giải thoát của tôn giáo mà nói, nhân loại càng ngày càng đọa lạc, đạo đức ngày càng bị mai một. Quan niệm về giá trị của người xưa là quan niệm làm sao để đạt được sự vĩnh hằng bất hủ. Triết học Hy Lạp cũng có tư tưởng truy cầu sự vĩnh hằng, nhưng cuối cùng lại có thể dùng biện pháp tư duy để giải quyết vấn đề sinh mạng. Tầng lớp trí thức trong thời đại Xuân Thu Chiến Quốc cũng thiết lập tư tưởng triết học an thân lập mệnh và khẳng định sự bất hủ của sinh mạng. Những thành tựu của khoa học cận đại mà người ta nói là có thể giải quyết được tất cả, cũng chỉ là một khoa học phiến diện. Nhưng nhân văn học, tôn giáo học mà khoa học đề cập là giá trị trung lập, tức là không bàn luận về ý nghĩa sinh mạng. Trên thực tế, khoa học trước mắt vô phương tiếp xúc những cảnh giới của tôn giáo.

Kinh A Hàm có rất nhiều quan niệm về sinh tử, nhưng hôm nay chúng ta tốt nhất là đem ánh mắt đồng tình để nhìn quan niệm sinh mạng của người cổ Ấn Độ trong hơn hai ngàn năm về trước, bởi vì quan niệm của họ là truy cầu sự bất hủ vĩnh hằng của sinh mạng. Trên cơ bản, Phật giáo đối với sự giải thoát sinh mạng vẫn giống những tôn giáo khác là cùng đứng trên một xuất phát điểm, cho rằng giải thoát thống khổcảnh giới hoàn thiện của kiếp người, vì thế luôn đề cập vấn đề liễu sanh thoát tử, nhưng điểm khác nhau giữa Phật giáo với những tôn giáo khác là vấn đề điều kiệnphương pháp. Phật pháp khẳng định cõi Ta bà nơi mà chúng ta đang ở là điều kiện tốt nhất để thực hành pháp, mà không cần phải tìm cầu ở thiên đường viển vông nào cả. Những phương pháp tu hành trong kinh A Hàm chính là khẳng định nhân gian tính, đồng thời nhấn mạnh sự quý báu của việc được làm thân người, vì người là nhịp cầu giữa mê và ngộ, giữa chúng sanh và Phật.

Kinh Tạp A Hàm chép rằng, Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Phật làm thế nào để đạt được cảnh giới thiền định tam muội mà các bậc Thánh chứng ngộ? Đức Phật đáp rằng, có bảy phép tu chân chánh là căn bản của các bậc Thánh đắc được thiền tam muội, tức là sau khi đạt được chánh kiến, chánh tri, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiệnchánh niệm, mới có thể nhập vào chánh định.

Đọc kinh A Hàm giúp chúng ta cảm nhận được tính chân thật của Phật giáo nhân gian, bởi vì địa điểm nhân vật mà kinh chép đều gắn liền với những sự thật lịch sử, Đức Phật mỗi ngày đều trước y trì bát trong nhân gian khất thực độ nhựt, đó là Đức Phật của nhân cách hóa. Kinh A Hàm còn chép rằng: "Đức Thế Tôn phải chăng là thay trời hành đạo?". Do đây có thể chứng minh kinh A Hàm khẳng định Đức Phật xuất hiệnnhân gian, chư Phật chẳng phải ở trên trời thành Phật. Nhân gian cuối cùng là nơi thích hợp để tu hành hơn cảnh giới ở các cõi trời.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10401)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
(Xem: 7730)
Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập.
(Xem: 8540)
Trong một quyển sách nhỏ «Phật Giáo Nhập Môn» tác giả Fabrice Midal đã dành riêng một chương để tóm lược thật ngắn gọn một số các khái niệm căn bản...
(Xem: 10129)
Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương.
(Xem: 18545)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 14543)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 8841)
Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo...
(Xem: 8920)
Phẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi tức là không, cũng là giả danh về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo.
(Xem: 8217)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận và Du-già hành tông hay trường phái Duy thức...
(Xem: 9011)
Không là pháp quán chung của Phật giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của các tông phái khác.
(Xem: 14196)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 8463)
Niệm tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm...
(Xem: 15291)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13164)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 7818)
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc..."
(Xem: 16686)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15544)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 8990)
Chấp nhận một hình thức Phật giáo rồi dấn thân bằng thực nghiệm, hành giả không cần phải dành quá nhiều công sức cho những vấn đề lý thuyết và những mục tiêu lý tưởng của các truyền thống khác nhau.
(Xem: 7935)
Pháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc?
(Xem: 7111)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị".
(Xem: 11275)
Đạo Phậtđạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.
(Xem: 14289)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10482)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20474)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 8801)
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ"
(Xem: 9295)
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành...
(Xem: 24140)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12678)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 7818)
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng.
(Xem: 16268)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 15624)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 8754)
Indriya có nghĩa là căn, gốc, khả năng, làm chủ, cốt yếu... Bala là lực, là sức mạnh. Vậy ngũ căn là 5 trạng thái tâm căn bản, 5 yếu tố tâm lý căn bản có khả năng kiểm soát tâm, làm chủ tâm.
(Xem: 7649)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội.
(Xem: 14620)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 9314)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu.
(Xem: 15528)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 15158)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16647)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 13484)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 15332)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 7845)
Tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành ra nước trà.
(Xem: 7509)
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễchúng ta đang thực hiện ngày hôm nay, Ngài cũng không vì vấn đề nghi thứcnghi lễ mà khuyến khích dân chúng...
(Xem: 7353)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu.
(Xem: 9022)
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật GiáoChánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương."
(Xem: 14043)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 8033)
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của Phật giáo...
(Xem: 7852)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn...
(Xem: 15824)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10273)
Chúng ta luôn bị bất an, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sinh mạng, quyền lợi, địa vị, vợ con, tiếng tăm, của cải… của mình bị thương tổn hay bị đe dọa.
(Xem: 7711)
Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
(Xem: 7530)
Trung-quán-luận hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để giảng Giáo lý của đức Phật.
(Xem: 12814)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 7870)
Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời.
(Xem: 8127)
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến ngày nay.
(Xem: 14078)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 7301)
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS / WHO) định nghĩa sức khoẻ là một "thể dạng an vui toàn diện, từ thể xác đến tâm thần và cả cuộc sống trong xã hội
(Xem: 9210)
Trong Thiện kiến tì-bà-sa cũng có thuyết này, nhưng vì độ người nữ xuất gia nên tổn chính pháp năm trăm năm.
(Xem: 9681)
“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ.
(Xem: 13125)
Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người.
(Xem: 7612)
Nếu không có ngã, sự liên quan giữa một hành nghiệp và kết quả của nó là điều không thể có, vì nếu tác giả của một hành nghiệp chết, ai sẽ có kết quả?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant