Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Từ thánh đế hữu tác đến chân lý tối hậu

28 Tháng Hai 201200:00(Xem: 13287)
Từ thánh đế hữu tác đến chân lý tối hậu


Chân lý vốn không có định loại, nhưng do khả năng quán chiếuchứng nghiệm sâu cạn của hành giảchân lý được biểu hiện hoặc là thế này hoặc là thế kia.

Từ đó, chân lý được phân loại theo từng cấp độ chứng nghiệm như sau:

I. CHÂN LÝ ĐƯỢC CHỨNG NGHIỆM BỞI HÀNG NHỊ THỪA

Hàng Thanh VănDuyên Giác do bước đầu quán chiếu Tứ thánh đế hữu tác, dưới đôi mắt của một cá nhân, đang bị buộc ràng bởi những nỗi sợ hãi phân đoạn sinh tử, và những tư duy về sự sống chết của thân phận con người.
Họ muốn biết họ là ai trước khi cha mẹ sinh ra và họ là gì sau khi hình hài này hủy diệt?

Do đó, đối tượng quán chiếu đầu tiên của họ là "lão tử", nghĩa là "già và chết" do đâu mà có. Và từ đó họ khám phá ra cả một chuỗi liên tiếp của Mười hai duyên khởi. Nghĩa là cái này sinh thì cái kia sinh.

Họ khám phá ra sự thực này bằng mặt "lưu chuyển". Và trong mặt lưu chuyển này, họ thấy rõ Khổ đếTập đế. Khổ đế là "sanh, lão - tử". Tập đế là "ái, thủ, hữu", đó là nhân hiện tại và quả tương lai.

Và họ cũng thấy rõ "thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ" là Khổ đế, ấy là quả của hiện tại; "vô minh và hành" là Tập đế tức là nhân của quá khứ.

Và họ quán chiếu Mười hai duyên khởi theo mặt "hoàn diệt", nghĩa là cái này diệt thì cái kia diệt. "vô minh và hành " diệt thì “thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ” cũng diệt, và "ái, thủ, hữu" mà diệt thì "sanh, lão - tử" cũng tùy diệt.

Sự quán chiếu Mười hai duyên khởi theo cách "hoàn diệt" như vậy là quán chiếu Đạo đế, và "ái, thủ, hữu" cũng như " hành và vô minh" hoàn toàn diệt, đó là quán chiếu Diệt đế.

Do quán chiếu như vậy mà hàng Nhị thừa đoạn được bốn phiền não trụ địa gồm: Kiến nhất thiết trụ địa, dục ái trụ địa, sắc ái trụ địahữu ái trụ địa.

Hoặc do quán chiếu Mười sáu hành tướng của Tứ thánh đế trong đời sống hiện tại mà hàng Nhị thừa tuần tự đoạn trừ các lậu hoặc.

Do đó, Thắng Man thưa với Đức Thế Tôn rằng: "Hàng Thanh VănDuyên Giác đầu tiên quán chiếu Thánh đế bằng một trí mà đoạn trừ các trụ địa, bằng một trí mà tác chứng công đức của bốn đoạn trí, cùng biết rõ nghĩa lý của bốn pháp ấy"

Nghĩa là hàng Nhị thừa quán chiếu Tứ thánh đế tuần tự không phải quán chiếu Tứ thánh đế đồng thời.

Do quán chiếu Tứ thánh đế tuần tự nên theo Thắng Man, hàng Nhị thừa không thể đoạn trừ được Vô minh trụ địa mà chỉ đoạn trừ được bốn trụ địa mà thôi.

Như vậy, theo Thắng Man, bốn Thánh đế làm bốn duyên hay bốn đối tượng tuần tự để cho hàng Nhị thừa quán chiếu nhằm đoạn trừ các trụ địa, đó là bốn Thánh đế hữu tác, nên cảnh giới sở chứng của hàng Nhị thừa chỉ là Hữu dư y Niết Bàn.

II. CHÂN LÝ ĐƯỢC CHỨNG NGHIỆM BỞI NHƯ LAI

Đối với hàng Thanh VănDuyên Giác thì trí và lý là hai, nghĩa là khổ trí là trí do quán chiếu và thấy rõ sự thực của khổ mà phát sinh. Tập trí là trí do quán chiếu và thấy rõ sự thực tập khởi của khổ mà phát sinh. Đạo trí là trí do quán chiếu và thấy rõ sự thực của con đường thoát khổ mà phát sinh và diệt trí là trí do quán sátchứng nghiệm sự thực của mọi khổ đau chấm dứt mà phát sinh.

Như vậy, trí và lý của hàng Nhị thừa là tiệm chí, nghĩa là có thời gian và có không gian để tiếp nhận nhau, do đó trí ấy chưa phải là thực trí và lý ấy chưa phải là thực lý hay là chân lý tuyệt đối.

Lại nữa, hàng Thanh Văn không có khả năng tự mình chứng ngộ chân lýchứng ngộ Tứ thánh đế qua sự giáo dục, khơi mở và khích lệ của đức Phật.

Do đó, Thắng Man nói: "Thánh đế của hàng Thanh Văn chứng ngộThánh đế hữu tác. Vì là Thánh đế hữu tác, nên hữu hạn, đã là hữu hạn thì không phải là vô biên.

Trái lại, Thánh đế của Phật chứng ngộ mới là Thánh đế toàn diệnvô biên, Thánh đế ấy gọi là vô tác".

Thánh đế vô tácThánh đế do như thực trí của Như Lai tự chứng ngộ, không có một ai dìu dắt, khơi mở hay khích lệ, nên Thánh đế được chứng ngộ bởi Như LaiThánh đế vô tác.

Thánh đế được chứng ngộ bởi Như Laiđồng thời, chứ không phải là tiệm thứ hay tiệm chí. Nghĩa là khi nhận ra sự thực của Khổ thì đồng thời cũng nhận ra ngay sự thực của Tập, Diệt và Đạo cùng một lúc chứ không phải khác thời. Và khi nhận ra sự thực của khổ trong Dục giới thì cũng cùng một lúc nhận ra sự thực của khổ ở Sắc giớiVô sắc giới và cũng cùng một lúc nhận ra ngay nỗi khổ phân đoạn sinh tử của phàm phu và nỗi khổ biến dịch sinh tử của các Thánh trong cùng một lúc và trong cùng một đế lý.

Do đó, Thắng Man nói: "Không có trí thượng thượng xuất thế gian nào mà có tiệm chí của bốn trí và tiệm chí của bốn duyên. Pháp không có tiệm chí là trí thượng thượng của xuất thế gian”

Bằng trí thượng thượng của xuất thế gian hay là như thực trí ngộ nhập chân lý là bằng trực giác đồng thời mà không cần có thứ tự của thời gian.

Như thực trí, đệ nhất nghĩa trí hay không-trí không thể nghĩ bàn, đó là những diễn tả về trí giác của đức Phật. Trí ấy có năng lực xóa sạch Vô minh trụ địa để chứng nhập Đệ nhất nghĩa lý, tức là Diệt thánh đế.

Diệt thánh đếchân lý cứu cánh hay là chân lý tuyệt đối, chân lý này chỉ có đệ nhất nghĩa trí mới chứng nhập. Chân lý tuyệt đối như thế, không thể chứng nhập Tứ thánh đế bằng sơ quán của hàng Nhị thừa.

Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.

Do đó, Diệt thánh đế là Thánh nghĩa duy nhất ở trong các Thánh nghĩa và là Thánh đế duy nhất ở trong các Thánh đế. Đấng mà chứng nhập Thánh đế và Thánh nghĩa ấy là Như Lai. Vì Như LaiNhất thừaThánh đế và Thánh nghĩa ấy là lý chứng của Nhất thừa chứ không phải là các thừa khác, các thừa khác đang hướng về Nhất thừa mà chưa ngộ nhập.

Như Lai từ nơi Nhất thừa mà vận khởi, thi thiết thành Tam Thừa để giáo hóa chúng sinh. Và cũng từ nơi Diệt thánh đế hay đệ nhất nghĩa đế mà trình bày các Thánh đế để khai thị cho các thừa và đưa các thừa ngộ nhập với Đệ nhất nghĩa đế tức là ngộ nhập vào chân lý tối hậu.

thanhdehuutac-thichthaihoa-contentIII. PHÂN LOẠI THÁNH ĐẾ

Sau khi thành đạo, đức Thế Tôn đến vườn Nai chuyển vận Pháp Luân ba lần với Mười hai hành tướng như sau:
Chuyển vận Pháp luân lần thứ nhất Đức Thế Tôn dạy:

Hỡi các tỷ khưu !

1. Đây là Khổ thánh đế, pháp được nghe, chiêm nghiệm đúng như lý, mắt trí tuệ, mắt minh triệt, mắt giác ngộ có thể phát sinh.

Hỡi các tỷ khưu !

2. Đây là Khổ tập thánh đế, pháp được nghe, chiêm nghiệm đúng như lý, mắt trí tuệ, mắt minh triệt, mắt giác ngộ có thể phát sinh.

Hỡi các tỷ khưu !

3. Đây là Khổ diệt thánh đế, pháp được nghe, chiêm nghiệm đúng như lý, mắt trí tuệ, mắt minh triệt, mắt giác ngộ có thể phát sinh.
Hỡi các tỷ khưu !

4. Đây là Thuận khổ diệt đạo thánh đế, pháp được nghe, chiêm nghiệm đúng như lý, mắt trí tuệ, mắt minh triệt, mắt giác ngộ có thể phát sinh.

Chuyển vận Pháp Luân lần thứ hai, Đức Thế Tôn dạy:

Hỡi các tỷ khưu !

1. Đây là Khổ thánh đế, pháp cần phải được hiểu, cần phải biết đúng từ sự nghe, chiêm nghiệm đúng như lý, mắt trí tuệ, mắt minh triệt, mắt giác ngộ có thể phát sinh.

Hỡi các tỷ khưu !

2. Đây là Khổ tập thánh đế, pháp cần phải được hiểu, cần phải đoạn trừ đúng như pháp phải được nghe, chiêm nghiệm đúng như lý, mắt trí tuệ, mắt minh triệt, mắt giác ngộ có thể phát sinh.

Hỡi các tỷ khưu !

3. Đây là khổ diệt thánh đế, pháp cần phải được hiểu, cần phải được chứng ngộ đúng như pháp đã được nghe, chiêm nghiệm đúng như lý, mắt trí tuệ, mắt minh triệt, mắt giác ngộ có thể phát sinh.

Hỡi các tỷ khưu !

4. Đây là Thuận khổ diệt đạo thánh đế, pháp cần phải được hiểu, cần phải được thực hành đúng như pháp đã được nghe, chiêm nghiệm đúng như lý, mắt trí tuệ, mắt minh triệt, mắt giác ngộ có thể phát sinh.

Chuyển vận Pháp luân lần thứ ba, Đức Thế Tôn dạy:

Hỡi các tỷ khưu !

1. Đây là Khổ thánh đế, pháp đã được hiểu, đã biết đúng từ sự nghe, chiêm nghiệm đúng như lý, mắt trí tuệ, mắt minh triệt, mắt giác ngộ đã có thể phát sinh.

Hỡi các tỷ khưu !

2. Đây là Khổ tập thánh đế, pháp đã được hiểu, đã được đoạn trừ đúng như pháp đã được nghe, đã chiêm nghiệmđúng như lý, mắt trí tuệ, mắt minh triệt, mắt giác ngộ đã có thể phát sinh.
Hỡi các tỷ khưu !

3. Đây là Khổ diệt thánh đế, pháp đã được hiểu, đã được chứng ngộ đúng như pháp từ sự nghe, chiêm nghiệm đúng như lý, mắt trí tuệ, mắt minh triệt, mắt giác ngộ đã có thể phát sinh.

Hỡi các tỷ khưu !

4. Đây là Thuận khổ diệt đạo thánh đế, pháp đã được hiểu, đã được thực hành đúng như pháp đã từng nghe, chiêm nghiệm đúng như lý, mắt trí tuệ, mắt minh triệt, mắt giác ngộ đã có thể phát sinh. [1]

Như vậy, đầu tiên tại vườn Nai, Đức Thế Tôn chuyển vận ba loại Thánh đế để khai thị, khuyến khích năm anh em Kiều Trần Như chứng nghiệm.

Ba loại Thánh đế gồm:

1. Thị chuyển Tứ thánh đế: Nghĩa là Tứ thánh đế do Đức Thế Tôn tự chứng ngộ và tự khai thị cho hàng đệ tử.

2. Khuyến chuyển Tứ thánh đế: Nghĩa là sau khi khai thị Tứ thánh đế, Đức Thế Tôn khuyến khích hàng đệ tử thực nghiệm để chứng ngộ.

3. Chứng chuyển Tứ thánh đế: Nghĩa là sau khi Đức Thế Tôn khai thị, khuyến khích hàng đệ tử thực hành và đã có sự chứng ngộ.

Theo Ngài Cát Tạng ở Thắng Man Bảo Khốt [2], Tứ thánh đế có hai loại:

1. Hữu lượng Tứ đế hay Hữu biên Tứ đế:

Đó là chân lý tương đối. Chân lý này làm chỗ y cứ để khởi lập nhị thừa. Và chân lý này là hữu lượng cho nên gọi là hữu biên.

2. Vô lượng Tứ đế hay Vô biên Tứ đế:

Đây là chân lý tuyệt đối, làm chỗ y cứ để khởi lập Nhất thừa. Và chân lý này là vô lượng, cho nên gọi là Vô biên Thánh đế. Lại nữa, theo kinh Thắng Man, phẩm Pháp Thân [3], có nêu rõ hai loại Thánh đế đó là Tác thánh đếVô tác thánh đế.

1. Hữu tác Thánh đế hay Hữu lượng Tứ thánh đế:

Đây là Thánh đế không do hàng Thanh văn tự liễu tri, tự chứng ngộ mà do Phật khai thị và tác chứng.

2. Vô tác Tứ thánh đế hay Vô lượng Tứ thánh đế:

Đây là Thánh đế do Như Lai tự liễu tri, tự chứng ngộ, Thánh đế này gọi là Vô tác hay Vô lượng.

Ngài Cát Tạng giải thích: "Hữu tác là Quyền đế. Vô tácThực đế. Nói quyền hay thực, nói tác hay vô tác là từ nơi thiết lập hạnh mà nói. Sau Thánh đế Tiểu thừa còn phải tu tập quán chiếu Thánh đế Đại thừa, ấy gọi là hữu tác. Sau Thánh đế Đại thừa, không còn Thánh đế nào cần phải tu tập quán sát nữa, nên gọi là Vô tác".[4]

Lại nữa, Ngài Trí Khải, lại phân chia Tứ thánh đế có bốn loại phối hợp với Tứ giáo như sau:

1. Sinh diệt Tứ đế:

Nghĩa là Tứ đế được trình bày ở trong Tạng Giáo (giáo lý Nguyên Thủy) là nói về sự tướng của pháp hữu vi sinh diệt. Do đó, quán chiếu nhân quả của Tứ thánh đế là có sinh diệt.

2. Vô sanh Tứ đế:

Hay là Tác vô sinh diệt Tứ đế được trình bày ở Thông Giáo (giáo lý bán Đại thừa) là nói các pháp thuộc về nhân duyên là Không, là Vô sinh.

Do đó, quán chiếu nhân quả của Tứ đế gồm mê và ngộ đều là rỗng lặng không sinh diệt.

3. Vô lượng Tứ đế: Tứ đế được trình bày ở trong Biệt Giáo (giáo lý thuần Đại thừa) là nói thế giới nội tại và ngoại tại có vô lượng hằng hà sa số sai biệt. Nhưng quán chiếu hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên sinh khởi, có đủ vô lượng sai biệt.

Do đó, Tứ đế cũng có vô lượng hành tướng.

4. Vô tác Tứ đế:

Tứ đế được trình bày ở trong Viên Giáo (giáo lý Tối Thượng Thừa) là nói đương thể của mê và ngộ chính là thực tướng. Quán chiếu thực tướng giữa mê và ngộ là nhất thể không mâu thuẫn. [5]

Ở đây, nếu nhìn Thánh đế bằng con mắt của Đệ nhất nghĩa trí thì Thánh nghĩa là Đệ nhất nghĩaThánh đếĐệ nhất nghĩa đế tức là chân lý tuyệt đãituyệt đối.

Vì pháp vốn là vậy, nên tự tính của pháp vốn bình đẳng, không sai biệt.

Nhưng ở đây pháp có sai biệt, có phân loại là thế này là thế kia là do căn cơ của hành giả quán chiếu đối với pháp mà có.

IV. CHÂN LÝ TỐI HẬU

Mọi sự vật đang diễn ra trước mắt của chúng ta là nó diễn ra từ chân lý tự thân của chính nó.

Cảm nhận được sự có mặt của mọi vật đang có mặt xung quanh ta không phải là sự cảm nhận của trẻ thơ mà đó là cảm nhận của người lớn.

Thấy mọi vật chung quanh ta là thường hằng, bất biến, là muôn năm đó là cái thấy của những kẻ phàm tục. Thấy mọi vật đang diễn ra chung quanh ta không phải là thuần phát đơn điệu, chúng diễn ra trong sự tương tác hòa điệu và sống động của nhân duyên đó là cái thấy của bậc Thánh hay gọi là bậc Kiến Thánh đế.

Vậy, Thánh đế là gì? Thánh đế không phải là chân lý của bậc Thánh, vì không có bậc Thánh đích thực nào tự cho mình là người nắm giữ chân lý hay là đấng sáng tạo chân lý.

Do đó, không có chân lý của bậc Thánh mà chỉ có chân lý được thấy và được chứng nghiệm bởi bậc Thánh mà thôi.
Chân lý là yếu tính vốn có của mọi sự vật, nó tồn tạitồn tại một cách khách quan, do đó không có một ai độc quyền nắm giữ nó mà chỉ có quyền cảm nhận nó và không có một ai có quyền sáng tạo nó mà chỉ có quyền chứng nghiệmtrực nhận nó.

Muốn chứng nghiệm chân lý, đó là khát khao muôn thuở của con người. Nhưng con người làm thế nào để có thể chứng nghiệm được chân lý, khi nơi chính họ có quá nhiều nhận thức sai lầm về bản thân, có quá nhiều nhận thức cục bộ và phiến diện, có quá nhiều sự mắc kẹt về các quan điểm bè phái và lại có quá nhiều sự tuân thủ vào những tín điều sai lệch với chân lý.

con người làm thế nào để có thể chứng nghiệm được chân lý, khi nơi tâm hồn của họ đầy dẫy những vô minhkhát ái. Vô minh không đưa con người đi tới chân lý mà đưa con người đi tới những hành động phi lý như khủng bố, giết người, trộm cắp, dối trá, phi luân, phân biệt và kỳ thị. Khát ái không đưa con người đi tới với tình yêu cao vợi mà chỉ đi tới với tình dục thô hèn. Khát ái không đưa con người bay bổng vào chân trời rộng lớn vô biên mà làm cho con người bị gãy cánh và sà xuống đắm chìm ở trong sinh tử.

Vô minh không đưa con người đi tới với chân lý toàn diện mà đưa con người đi tới với chân lý bể vụn. Và khát ái không đưa con người đi tới với sự tự do mà đi tới với hệ lụy.

Như vậy, con người muốn đạt tới chân lý vô biêntoàn diện thì chân lý trước mắtcon người phải loại bỏ vô minhkhát ái ở trong chính mình.

Nếu con người không loại bỏ vô minhkhát ái thì chân lý trước mắt của họ là chân lý khổ đau. Và nếu con người không loại bỏ những kiến chấp về bản ngã, tự kiêu và tự đắc thì chân lý trước mắt của họ là sự bất khoan dungbạo động, là hận thù và chiến tranh.

Do đó, pháp loại bỏ vô minhkhát ái, pháp ấy gọi là Thánh pháp. Pháp đi theo với vô minhkhát ái, pháp ấy gọi là phàm pháp. Pháp không có Thánh hay phàm, nhưng pháp nào mang tính "thanh" thì pháp ấy được gọi là pháp thuộc về bậc Thánh hay gọi là Thánh pháp.

Pháp nào mang tính "trược" thì pháp ấy được gọi là pháp thuộc về kẻ phàm. Pháp nào mang thể của "tịnh" thì pháp ấy được gọi là Thánh pháp, pháp nào mang thể của "nhiễm" thì pháp ấy được gọi là phàm pháp. Pháp nào mang "tướng của vô tướng" thì pháp đó thuộc về bậc Thánh, pháp nào mang "tướng của hữu tướng" thì pháp đó thuộc về kẻ phàm.

Pháp nào mang tác dụng thăng tiến, pháp đó gọi là pháp thuộc về bậc Thánh, pháp nào mang tác dụng thoái hóa, pháp đó được gọi là pháp thuộc về kẻ phàm.

Lại nữa, pháp nào mang năng lực sinh khởi hiểu biếtthương yêu, pháp đó gọi là pháp thuộc về bậc Thánh, pháp nào mang năng lực sinh khởi khát ái hận thù thì pháp đó thuộc về kẻ phàm.

Pháp nào mang tác nhân đưa tới sự ngộ nhập chân lý, pháp ấy gọi là pháp thuộc về bậc Thánh. Pháp nào mang tác nhân che khuất chân lý, pháp đó gọi là pháp thuộc về kẻ phàm.

Pháp nào hỗ trợ cho sự chứng đạt chân lý, pháp đó gọi là pháp thuộc về bậc Thánh. Pháp nào cản trở sự chứng ngộ chân lý, pháp đó gọi là pháp thuộc về kẻ phàm.

Pháp nào mang thành quả của sự an lạc, pháp đó gọi là pháp thuộc về bậc Thánh. Pháp nào mang thành quả của khổ đau và thất vọng, pháp đó là pháp thuộc về kẻ phàm.

Như vậy, pháp hay chân lý chỉ là pháp hay chân lý mà thôi. Nhưng khi trong pháp hay chân lý nó mang thể tính, tác dụng và nội dung của cái gì, thì pháp hay chân lý đó có tên gọi theo cái đó và nó có thể trở thành thuộc tính của cái đó và nó biểu hiện theo cái tính của nó đã lệ thuộc.

Bởi vậy, chân lý của con ngườichân lý không có chân lý, vì nơi tự thân của con người vừa có thuộc tính của phàm lẫn Thánh, nên con người có thể bỏ phàm theo Thánh hoặc bỏ Thánh theo phàm, do đó chân lý không có chân lý mới là chân lý của con người.

Nếu trong đời sống hàng ngày, con người được xông ướp bởi tám phẩm chất thanh tịnh gồm:

- Thanh tịnh về hiểu biết.
- Thanh tịnh về tư duy.
- Thanh tịnh về lời nói.
- Thanh tịnh về hành động.
- Thanh tịnh về sự nuôi sống.
- Thanh tịnh về sự thăng tiến.
- Thanh tịnh về ý niệm.
- Thanh tịnh về tâm hồn.

Và mọi sự thanh tịnh này đều được thể hiện qua các động tác đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, làm việc, thì con người càng ngày càng lớn dần ở trong Thánh đạo và đi đến Phật đạo. Và đến một lúc nào đó với sự chín muồi của thời gian xông ướp, thì những chất liệu đó đối với con người không phải là hai thực thể cá biệt. Chất liệu đó chính là con người đó, con người đó chính là chất liệu đó. Con người đó ở đâu thì sự thanh tịnh được biểu hiện ra ở đó, và sự thanh tịnh được biểu hiện ra ở đâu là có con người đó ở đó.

Do vậy, khi con người đã loại bỏ sạch vô minhkhát ái trong nhận thức, tư duy, lời nói, hành động, sự nuôi sống, sự thăng tiến, từng ý niệm và trong tâm hồn của chính mình, thì sự tự do không phải là một ước mơ mà là một hiện thực trong từng bước chân đi và hạnh phúc không phải là một sự khát khao tìm kiếm mà nó hiện thực từ những hơi thở, từ những nhịp đập của trái tim và từ nơi những cách nhìn chiếc lá, cụm mây, dòng nước, con sâu, con kiến...
Như vậy, chỉ có hạnh phúcchân lý tối hậu của mọi chân lýcon người đang khát vọng tìm cầu. Và chỉ có Diệt Thánh Đếchân lý duy nhất trong tất cả mọi chân lýđức Phật chứng ngộ. Diệt Thánh đếvô minhkhát ái hoàn toàn vắng lặng, niềm hạnh phúctự do an lạc tròn đầy.

Từ chân lý này mà đức Phật ứng thân thị hiện mang chất liệu của đại biđại trí dưới vô lượng hình thức, vô lượng thời gian, vô lượng không gian, vô lượng chủng loại để giáo hóa, an ủi và làm bóng cây che mát chúng sinh, làm suối nguồn bình an cho hết thảy chúng sanh tắm gội và là nguồn sáng vô cùng dẫn lối chúng sinh đi, đem lại vô lượng phước đức, niềm tinlợi lạc cho họ.

Và cũng chính chân lý này là điểm về duy nhất của các bậc Thánh và là nơi quy ngưỡng duy nhất của con người và hết thảy chúng sanh.

Diệt thánh đếchân lý tối hậu của mọi chân lý, là ước mơ tối hậu của mọi con người, là hướng đến duy nhất của các bậc Thánh và là chỗ chứng nghiệm tuyệt đối của các Đức Như Lai.

Từ chân lý tối hậu, Đức Như Lai đã tùy duyên vận dụng mọi phương tiện một cách kỳ diệu, để dìu dắt mọi người và mọi loài đi về đích điểm.

Do đó, Như Lai là Bậc Thầy của tất cả vị thầy.

T.T.H.

[1] Phật thuyết tam chuyển pháp luân kinh, trang 504, ĐTTT2.
[2] Thắng Man Bảo Khốt, hạ, trang 63, ĐTTT37.
[3] Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa, trang 221, ĐTTT12.
[4] Thắng Man Bảo Khốt, trang 69a, ĐTTT37.
[5] Phật quang đại từ điển 2, trang 1842b.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6982)
Trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, tạo ác nghiệp nhất định chiêu quả khổ.
(Xem: 8782)
Sinh thuận, tử an là một phước báo lớn của con người. Một khi chưa biết nghiệp duyên của mình sẽ chết bình an hay bất an thì hãy cố gắng tu tập các thiện pháp.
(Xem: 8479)
Bản Chất của Hạnh Phúc được trích từ tác phẩm Nghệ Thuật Sống Hạnh Phúc: Cẩm Nang cho Đời Sống, một quyển sách căn cứ trên sự mở rộng những đối thoại giửa Đức Đạt Lai Lạt MaBác sĩ Howard C. Cutter, một nhà tâm lý trị liệu phương Tây.
(Xem: 8017)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7772)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6965)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13839)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7573)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9331)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7862)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7798)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7362)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7751)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7478)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8685)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 11093)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15462)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19247)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14934)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8850)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8845)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14696)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15297)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8543)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 11003)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11346)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8727)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9093)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19797)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24717)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8834)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9153)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10823)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 9028)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7931)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8820)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8311)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7329)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 11153)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7412)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8298)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17712)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44239)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45513)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 45088)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10648)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8575)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7584)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7606)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7397)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12137)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 7957)
Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa?
(Xem: 8445)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9200)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 8130)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8922)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 8039)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8202)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8703)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16362)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant