Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đôi điều về thực dưỡng Osawa và Phật tử

29 Tháng Hai 201200:00(Xem: 21731)
Đôi điều về thực dưỡng Osawa và Phật tử
ĐÔI ĐIỀU VỀ THỰC DƯỠNG OSAWA VÀ PHẬT TỬ 
Trí Lập

amduong-osawa-contentPhật tử, đương nhiên phải giữ giới, chí ít là năm giới của cư sĩ, dĩ nhiên chay tịnh là điều không cần phải bàn cãi. Thực tế ngày nay, chay tịnh đã vượt ra khỏi ranh giới đạo Phật, khi nhiều tổ chức khoa học uy tín xác nhận ăn chay chẳng những vô hại mà còn có lợi cho sức khoẻ…

Ăn chay ngày nay đã trở thành “mốt”, nó phục vụ đông đảo quần chúng thuộc nhiều đối tượng khác nhau, từ những người mẫu, ca sĩ, thí sinh hoa hậu cần giữ co, giữ eo, đến những người bị chứng béo phì muốn giảm cân. Ngoài ra, còn phải kể đến các Linh mục Công giáo, họ ăn chay theo kiểu Phật giáo một cách rất “hồn nhiên” theo cách nói của các tác giả trên conggiaovietnam.net, với mục đích rõ ràng, thực hiện “hội nhập văn hóa” để “đối thoại liên tôn” theo chủ trương của Vatican. Có người còn tích cực hơn với gạo lức muối mè theo thực đơn số 7 như Linh mục thi sĩ Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh…

Do xã hội thực sự có “cầu”, nên “cung” cũng được đáp ứng nhanh chóng bởi sự bén nhạy của các doanh nghiệp, hàng loạt các công ty cung cấp thực phẩm chay ra đời, nhiều nhà hàng chay được mở ra chào đón khách với những món “chay qúy tộc” mà giá thành có thể mắc gấp đôi so với các món mặn khác…

Đối với Phật tử, thực dưỡng Osawa là một lựa chọn đúng đắn, vừa tiết kiệm ngân quỹ gia đình, vừa phòng chống bệnh tật, giúp cơ thể khoẻ mạnh để có thể thăng tiến tu học.

Phương pháp dưỡng sinh Osawa được biết đến từ thập niên 60 dựa trên căn bản quân bình âm dương của thực phẩm… Bẵng đi một thời gian khá lâu, đến nay phong trào rộ nở mà công đầu thuộc về một nhà sư trẻ, một trong những đệ tử xuất chúng của HT Thích Thanh Từ: Đại đức TTH... Từ đó, tài liệu, băng đĩa được phát hành phục vụ cộng đồng, không chỉ trong nước mà còn được đồng bào người Việt hải ngoại đón chào nồng nhiệt.

Tuy nhiên, do nhận thứctừ lâu người ta chỉ chú trọng đến mặt dưỡng sinh để trị bệnh mà không quan tâm đến khía cạnh tâm linh”, nên thầy TTH đã đặt trọng tâm nghiên cứu thực dưỡng Osawa trên khía cạnh này. Điều đó không có gì sai trái. Rất tiếc, thầy lại quá sa đà vào lý thuyết âm dương, mà quên đi đối tượng chính của mình là các Phật tử, những người tin lời Đức Phật dạy: con người sinh ra trong nhân quả, sống trong nhân quả và chết đi trong nhân quả… Thay vì lấy “nhân quả làm nhân cho phương pháp luận của mình, thầy lại chọn “âm dương”, một học thuyết phi Phật giáo. Dưới đây là vài nhận định.

Nếu nói rằng: Đức Phật hiểu thấu nguyên lý âm dương, bằng chứng khi Ngài dạy nằm thế Kiết Tường, đầu phải quay về hướng bắc, chân xuôi hướng nam, mặt xoay hướng tây lưng dựa hướng đông… Ngài đã nắm vững quy luật âm dương trong thế nằm Kiết Tường, nhưng “Ngài không nói ra”!  Thầy TTH lập luận như thế chẳng khác mấy so với lập luận của Linh mục Cao Phương Kỷ về cái gọi là “tinh thần biện chứng của cây thánh giá”, với trục tung vươn lên tận trời, trục hoành vươn dài về hai phía đến vô tận. Với hàm ý, Giêsu cũng thấu suốt tất cả những vấn đề về triết học và toán học, nhưng Ngài cũng “không nói ra”!?... 

Tôi chợt nhớ lời một vị Tôn túc đáng kính: Người ta đã đặt vào miệng Phật những điều Phật không nói. Quả vậy! những lời Phật chưa hề nói mà dám gán cho “Phật thuyết”, huống hồ là thế giới siêu tưởng, sản phẩm của tưởng tri, tưởng giải, cũng gán cho Phật đã biết, đã chứng. Đây chính là điều Đức Phật đã cảnh báo trong Kinh Tăng Chi I (Anguttara Nikàya). Phẩm Người Ngu: “Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai. Thế nào là hai? Người nêu rõ Như Lai có nói, có thuyết là Như Lai không nói, không thuyết, và người nêu rõ Như Lai không nói, không thuyết là Như Lai có nói, có thuyết. Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai.”

Đã có quá nhiều thân tầm gửi sống bám trên cơ thể Phật giáo. Mạt pháp chính là chỗ ấy… Ngoại trừ Tuệ Tam Minh, với trí tuệ phàm phu của chúng ta hiện nay, khó có thể kiểm chứng sự lạc dẫn mà người ta cố tình gán cho “Phật thuyết”, nhằm làm chệch hướng lộ trình giải thoát mà Đức Thích Ca Mâu Ni đã phát hiện sau bốn mưới chín ngày dưới cội bồ đề…

Tôi không biết Chúa Giêsu có hiểu biết về toán học và triết học hay không? Nhưng tôi dám khẳng định Đức Thích Ca Mâu Ni, với trí tuệ Tam Minh, nếu Ngài muốn biết bất kỳ vấn đề gì thì Ngài sẽ biết. Tuy nhiên, có nhiều vấn đề Ngài không cần biết, vì nó không mang lại lợi ích cho mục tiêu giải thoát của chúng sanh… Chính vì thế Ngài luôn nhắc nhở: những gì cần biết phải biết, những gì cần tu học phải tu học… Điều đó có nghĩa là nếu quy luật âm dương, ngũ hành không phải là pháp môn giải thoát, Ngài sẽ không biết và không cần biết…

Theo quan kiến của cá nhân tôi, lý thuyết âm dương chỉ có giá trị tương đối, không có một tiêu chuẩn nào để thẩm định một vật là âm hay dương… Hiểu biết về âm dương cho đến nay vẫn còn là vấn đề tranh cãi giữa những nhà Dịch học.

Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”. Nhưng hiện nay, người ta vô tình hay hữu ý tầm thường hóa chân lý ấy. Chữ “khổ” trên cửa miệng của nhiều người đã trở thành câu chuyện nhàm chán: “khổ lắm… biết rồi… nói mãi…”. Người ta đã tầm thường hóa, dung tục hóa, bi hài hóa một chân lý dưới nhiều hình thức như văn chương, thi ca, kịch nghệ kiểu “chuyện tình Lan và Điệp”, nhằm khỏa lấp khoảng trống vô vị của cuộc đời… Thậm chí có vị Thiền sư thời danh đã dạy Phật tử: con người có sẵn sự an lạc mà không chịu hưởng, lại đi nhận nghiệp, nhận khổ. Vị Thiền sư này khẳng định: bên cạnh cái “khổ” của Tứ đế còn có cái “lạc”. Ngài còn dạy cách “chế tác lạc” nhằm đối trị “khổ”!?... Ngài quên rằng Thế Tôn chỉ dạy “Khổ thánh đế”. Thế Tôn không bao giờ chế tác “lạc thánh đế”!... 

Đức Phật dạy: đời là bể khổ, không có khổ chắc chắn không có đạo Phật. Không có khổ chắc chắn Thái tử Tất Đạt Đa đã kế nghiệp vua cha cai trị sơn hà xã tắc của Ngài, chứ không trở thành Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni tôn kính của chúng ta ngày nay. Nhưng vì có khổ, khổ là một sự thật hiển nhiên của mỗi con người cụ thể, không mơ hồ, trừu tượng. Nhận thức rõ ràng điều đó nên Ngài đã bỏ cung vàng điện ngọc ra đi với mục đích duy nhất, giải quyết rốt ráo vấn nạn này và Ngài đã thành công. Vì thế, bài pháp đầu tiên Ngài giảng cho năm anh em ông Kiều Trần NhưTứ Thánh Đế, đế đầu tiên Ngài dạy là KHỔ THÁNH ĐẾ. Sao “Khổ” mà gọi là “Thánh”? Chính nhờ trí tuệ siêu việt Ngài đã liễu tri như thực khổ, xác chứng chân lý đầu tiên của đạo Phật.

Nhưng khổ từ đâu sanh? Câu trả lời vắn gọn chính là từ tham dục… Vì tham dụccon người phải trôi lăn, hết tham dục thì hết trôi lăn, hết trôi lăn đương nhiên phải hết khổ. Đơn giản chỉ có thế! Điều này được xác tín qua lời dạy của Đức Phật: “Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ một pháp. Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh. Thế nào là một pháp? Tham, này các Tỷ-kheo, là một pháp, các Thầy hãy từ bỏ! Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.” (Tiểu bộ kinh. Bài kinh Một Pháp). Đối với sân và si, Ngài cũng dạy y như thế…

Kính thưa thầy T.T.H. Thầy có tin không? Tin rằng, nếu từ bỏ được tham sân si, Đức Phật bảo đảm không còn tái sanh! Tin không? Nếu tin sao thầy dạy Phật tử những điều ngược lại? Rằng: "Nếu một người tu theo đạo Phật mà không thấu triệt âm dương thì không thể đạt đến đỉnh cao của tâm linh…" Rằng: "Thực dưỡng Osawa không chỉ dừng ở chỗ dưỡng sinh mà còn nhìn sâu hơn đến Giác Ngộ Giải Thoát." Và khẳng định: "đó là mục đích cuối cùng của phương pháp dưỡng sinh Osawa…"

Tôi không tin tất cả các bậc Tôn túc hiện nay đều “thấu triệt lý thuyết âm dương”, nếu thế các vị sẽ “không thể đạt đến đỉnh cao tâm linh”?, không thể “nhìn sâu hơn đến giác ngộ giải thoát”?, các vị không thể đạt đến “mục đích cuối cùng” của đạo Phật!…

Lại nữa, nhiều Linh mục Công giáo như Lương Kim Định, Trần Văn Đoàn… là nhưng người rất am tường học thuyết âm dương, ngũ hành, họ cũng đã từng chia sẻ những trải nghiệm tâm linh giải thoát, nhưng là giải thoát trong “Chúa quan phòng” của họ!…

Có thể tạm kết luận, thực dưỡng Osawa và triết lý âm dương có thể dẫn đến “giác ngộ giải thoát”, nhưng giải thoát theo kiểu gì thì còn tùy, kiểu của các Đạo sĩ hoặc Nho sĩ? kiểu của Tiên sinh Osawa hay kiểu của các Linh mục Công giáo?… Riêng đối với đạo Phật, câu trả lời dứt khoát là “Không thể”. Giải thoát của đạo Phậtly dục, ly ác pháp, ly tham sân si, như đã được khẳng định trong bài kinh “Một pháp” thuộc kinh Tiểu Bộ, với sự bảo đảm chắc chắn của chính Đức Phật: Hãy từ bỏ tham, ta bảo đảm với các thầy sẽ không còn tái sanh…” 

Thật ngạc nhiên trước lời dạy: "Khi tọa thiền, vận dụng hơi thở để tại đan điền ở mạch nhâm, mà quên mạch đốc ở phía sau sẽ bị mất quân bình âm dương... người ngộ tánh là người phải hiểu được nguyên lý âm dương…" Có thể thầy T.T.H. đã dạy đúng, nhưng là đúng pháp của một vị Tổ sư nào đó, chứ không thể đúng pháp mà Đức Phật đã dạy trong Nikaya. Trong kinh Niệm xứ (Satipatthàna sutta) Đức Phật dạy rất rõ: "tuệ tri hơi thở vô, hơi thở ra với mục đích thấy như thật tánh sanh khởi, tánh sanh diệt, tánh diệt tận trên cả bốn trụ xứ thân, thọ, tâm, pháp," chứ Ngài không hề dạy vận dụng hơi thở tại đan điền, mạch nhâm, mạch đốc để quân bình âm dương… Đặc biệt đối với thân, vì trên thân có đầy đủ cả thọ, tâmpháp. Vì thế Đức Phật dạy: “"Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời…” Đã không nương tựa bất cứ việc gì trên đời, có lý nào lại nương tựa vào âm dương, mạch nhâm, mạch đốc?...

Luận thiền, luận đạo của các vị Tổ sư, của các tông phái không phải là mục đích của bài viết này. Người viết chỉ đưa ra những nhận định dựa trên lời dạy của chính Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni trong Nikaya với một tín lực đã được khẳng định: “Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn…” Chính vì thế, những lời dạy kiểu: "một người ngồi thiền không thể vào định được nếu không ngộ được nguyên lý âm dương…" chỉ có thể là thiền tưởng, định tưởng của một tôn giáo nào đó, chứ không thể là thiền định do chính Đức Phật dạy… Cái gọi là: không thể vào định! Định gì mà vào? Trong 37 phẩm trợ đạo Định Giác Chi và Định Như Ý Túcpháp thành tựu chứ không phải pháp hành. Pháp hành chính là: ngăn ác, diệt ác pháp. Sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp (Tứ chánh cần) và ly xả ngũ triền cái, thất kiết sử trên thân, thọ, tâm, pháp (Tứ niệm xứ). Do công năng ly và xả thật sạch mà Định Giác Chi và Định Như Ý Túc tự thành tựu. Nếu ngộ được nguyên lý âm dương mà vào được định, thì đây chỉ có thể là định tưởng. Về Thiền cũng thế, bằng chánh niệm tỉnh giác, ly tham dục, ly bất thiện pháp một cách triệt để, với tầm và tứ, cánh cửa Thiền thứ nhất sẽ được mở ra, chứ không thể ngồi quay mặt về hướng bắc cho đúng với từ trường âm dương mà có thể mở được cánh cửa Thiền này.

Từ bỏ tham như thế nào? Đạo Phật rất thực tế, rõ ràng cụ thể, không phải mớ lý luận siêu hình. Bài kinh 62. Ðại kinh Giáo giới La-hầu-la (Mahà Ràhulovàda sutta) Đức Phật dạy: "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập…” Dĩ nhiên không phải “quán”“ly” được ngay, mà từng giờ, từng phút, từng giây, chánh niệm tỉnh giác trên mỗi hơi thở ra, thở vô mới có cơ may quét sạch tham dục.

Cũng cần nói thêm để tránh ngộ nhận. Từ “quán” trong câu “quán ly tham” không phải pháp quán thông thường như mọi người thường hiểu, mà là pháp môn tạo ý thức lực mạnh mẽ gọi là “Như lý tác ý đệ nhất pháp” như chính Đức Phật đã dạy pháp môn này rất nhiều trong suốt bộ kinh Tăng Chi: “Này các Tỷ-kheo, nếu như lý tác ý, thời dục tham chưa sanh không sanh khởi, và dục tham đã sanh được đoạn tận…” Đây chính là pháp môn “Đoạn Triền Cái”… 

Nếu chúng ta “tu cầm chừng”, chỉ với mục đích gieo duyên với chính pháp, có thể thủng thỉnh, tà tà, vừa “tu" vừa nghiên cứu âm dương ngũ hành, áp dụng vào thực dưỡng đúng cách để có một cuộc sống tốt đẹp với một cơ thể khỏe mạnh. Điều này không có gì sai trái… Nhưng nếu chúng ta ý thức Sanh Tử Là Việc Lớn, thôi thúc bức bách sau lưng ta, buộc ta phải quyết định lựa chọn, đấu tranh một mất một còn với giặc sanh tử, liệu có thời gian chăng để nghiên cứu âm dương áp dụng cho đúng phép thực dưỡng?

Nếu quyết định chọn con đường giải thoátĐức Phật đã khẳng định “duy nhất, không có con đường thứ hai” như đã được biết trong kinh Niệm xứ Satipatthàna sutta thì hãy buông xả tất cả, hãy trả âm dương về cho thái cực, tứ tượng, bát quái, để nó vận hành, điều hòa vũ trụ theo cách của nó mà chúng ta không cần quan tâm… Vả lại, Đức Phật cũng đã từng dạy: “thừa tự Pháp không thừa tự thực phẩm…” (Kinh Thừa tự Pháp. Dhammadàyàda sutta. Trung bộ kinh).

Bệnh tật là một chướng ngại pháp tồn tại trên thân, nó sinh ra từ tham dục. Nếu tham ăn, tham uống, tham hút, chắc khó tránh các bệnh thuộc hệ hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa… Nhờ có chánh kiến, chánh tư duy, người Phật tử biết do nhân tham mà có quả bệnh, nhân quả rất rõ ràng, giả sửliên quan đến âm dương ngũ hành, cũng không phải là nguyên nhân chính.

“Có bệnh thì vái tứ phương, có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Kinh nghiệm dân gian được đúc kết nhiều đời đã khẳng định một giá trị thực tiễn: “có kiêng có lành”. Nếu thân bệnh mà biết kiêng cữ đúng cách cũng có thể ngăn chặn các biến chứng một cách đáng kể. Về mặt này, lý thuyết âm dương quân bình thực phẩm trong phương pháp dưỡng sinh Osawa cũng có mặt tích cực của nó. Người Phật tử đang áp dụng phép thực dưỡng này, có thể nghiên cứu nếu có điều kiệnthời gian. Nhưng không được phép nhầm lẫn bởi sự lạc dẫn do vô tình hay cố ý của ai đó đã cho rằng đây cũng là pháp môn “giác ngộ giải thoát” của đạo Phật.

Đối với thân bệnh, đạo Phật cũng có cách ngăn ngừa, hạn chế bệnh tật đơn giảnhiệu quả, đó là: thiểu dục tri túc. Từ đó hướng tới một giải pháp tích cực hơn, quét sạch tất cả mọi chướng ngại pháp trên cả bốn trụ xứ thân, thọ, tâm, pháp. Tất nhiên không dễ dàng gì vì tham dụcbất thiện pháp đã đổ bê tông cốt thép dày đặc trên đó, chúng đã khằn cứng từ nhiều đời kiếp, chỉ còn cách nhiệt tâm học làm nghề “khoan cắt bê tông”, tích cực khoan, đục, chặt các kiết sử, mài mòn dần các triền cái trên cả bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp. Nếu quét sạch được, lúc đó hành giả có thể ca khúc khải hoàn: “sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong…”

Điều sau cùng muốn chia sẻ là: tu giới và giữ giới là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Giới là pháp môn tu học chứ không phải là tín điều buộc phải giữ. Một người giữ giới, trường chay ba mươi năm, người này chưa chắc đã tu giới. Ngược lại, một người tu giới, người đó chắc chắn đã giữ giới. Điều này dễ hiểu vì dù trường chay nhiều năm, nhưng dục ăn vẫn còn, nghiệp đói của thân chưa xả bỏ. Ngoài dục ăn, còn nhiều thứ dục vi tế khác khó nhận biết, ví như thực phẩm phải vừa tương phản, vừa hài hòa về màu sắc, vừa kết hợp quân bình âm dương, tạo nên một món ăn đạt chuẩn thẩm mỹ mà người ta vẫn gọi là “nghệ thuật ẩm thực” với triết lý: ăn không chỉ bằng miệng mà còn bằng mắt… Đối với đạo Phật, chính tại chỗ này, dục của mắt, của mũi, của lưỡi phát sinh… Tu giới không chỉ là giữ giới mà chính là ly dục. Đây chính là chỗ khác biệt giữa người tu giới và người giữ giới.

Trí Lập

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10393)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
(Xem: 7723)
Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập.
(Xem: 8532)
Trong một quyển sách nhỏ «Phật Giáo Nhập Môn» tác giả Fabrice Midal đã dành riêng một chương để tóm lược thật ngắn gọn một số các khái niệm căn bản...
(Xem: 10120)
Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương.
(Xem: 18526)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 14518)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 8826)
Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo...
(Xem: 8918)
Phẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi tức là không, cũng là giả danh về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo.
(Xem: 8204)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận và Du-già hành tông hay trường phái Duy thức...
(Xem: 9006)
Không là pháp quán chung của Phật giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của các tông phái khác.
(Xem: 14173)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 8443)
Niệm tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm...
(Xem: 15278)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13149)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 7813)
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc..."
(Xem: 16669)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15509)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 8986)
Chấp nhận một hình thức Phật giáo rồi dấn thân bằng thực nghiệm, hành giả không cần phải dành quá nhiều công sức cho những vấn đề lý thuyết và những mục tiêu lý tưởng của các truyền thống khác nhau.
(Xem: 7933)
Pháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc?
(Xem: 7102)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị".
(Xem: 11262)
Đạo Phậtđạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.
(Xem: 14272)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10472)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20459)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 8784)
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ"
(Xem: 9285)
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành...
(Xem: 24114)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12660)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 7804)
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng.
(Xem: 16247)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 15604)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 8737)
Indriya có nghĩa là căn, gốc, khả năng, làm chủ, cốt yếu... Bala là lực, là sức mạnh. Vậy ngũ căn là 5 trạng thái tâm căn bản, 5 yếu tố tâm lý căn bản có khả năng kiểm soát tâm, làm chủ tâm.
(Xem: 7646)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội.
(Xem: 14609)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 9306)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu.
(Xem: 15500)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 15140)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16626)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 13469)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 15323)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 7830)
Tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành ra nước trà.
(Xem: 7497)
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễchúng ta đang thực hiện ngày hôm nay, Ngài cũng không vì vấn đề nghi thứcnghi lễ mà khuyến khích dân chúng...
(Xem: 7346)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu.
(Xem: 9012)
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật GiáoChánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương."
(Xem: 14026)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 8021)
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của Phật giáo...
(Xem: 7843)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn...
(Xem: 15800)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10261)
Chúng ta luôn bị bất an, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sinh mạng, quyền lợi, địa vị, vợ con, tiếng tăm, của cải… của mình bị thương tổn hay bị đe dọa.
(Xem: 7688)
Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
(Xem: 7510)
Trung-quán-luận hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để giảng Giáo lý của đức Phật.
(Xem: 12783)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 7848)
Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời.
(Xem: 8097)
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến ngày nay.
(Xem: 14053)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 7283)
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS / WHO) định nghĩa sức khoẻ là một "thể dạng an vui toàn diện, từ thể xác đến tâm thần và cả cuộc sống trong xã hội
(Xem: 9185)
Trong Thiện kiến tì-bà-sa cũng có thuyết này, nhưng vì độ người nữ xuất gia nên tổn chính pháp năm trăm năm.
(Xem: 9653)
“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ.
(Xem: 13101)
Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người.
(Xem: 7588)
Nếu không có ngã, sự liên quan giữa một hành nghiệp và kết quả của nó là điều không thể có, vì nếu tác giả của một hành nghiệp chết, ai sẽ có kết quả?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant