Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thực hành Duy thức

12 Tháng Ba 201200:00(Xem: 13091)
Thực hành Duy thức
THỰC HÀNH DUY THỨC
Nguyễn Thế Đăng


1. Mục tiêu chiến lược

Duy thức, như tất cả các con đường khác của Phật giáo, nhằm đến mục tiêu chiến lược là thấy được “hai vô ngã: nhân vô ngã và pháp vô ngã”. Nhân vô ngãcon người vô ngã. Pháp vô ngã là mọi hiện tượng đều vô ngã. Thấy được hai vô ngã là thấy thực tại tối hậu, gọi là tánh Không, Niết-bàn, Pháp thân, Chân Như… Nói theo hệ thống Duy thức, thấy hai vô ngã là giải tan Biến kế sở chấp tánh để Viên thành thật tánh hiển bày.

Sanh tử là do không biết rằng tất cả đều do thức biến hiện. Kinh Lăng Già đời Tống, Cầu-na Bạt-đà-la dịch:

“Thế nào người trí ở ngay nơi lầm loạn này mà khởi chủng tánh Phật thừa? Nghĩa là giác tự tâm hiện lượng, ở bên ngoài đều vô tự tánh nên chẳng có tướng vọng tưởng”.

D.T. Suzuki dịch từ bản Sanskrit (1932): “Đại Huệ, gia tộc Phật thừa khởi ra như thế nào khi sự lầm lẫn này được người trí phân biệt? Này Đại Huệ, khi thế giới được thấu hiểu không là gì cả ngoài chính tâm thức, bấy giờ dừng dứt những phân biệthiện hữu và không hiện hữu của những đối tượng bên ngoài, lúc ấygia tộc Phật thừa”.

Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.

Không biết (vô minh) ngã và pháp là không thật, chấp vào chúng là sanh tử. Càng chấp vào chúng thì sanh tử càng nặng nề, như một ví dụ trong Kinh Lăng-già là con tằm nhả tơ thành tổ kén để càng lúc càng trói buộc mình. Biết ngã và pháp chỉvọng tưởng, càng biết rõ thì càng thoát khỏi sanh tử vọng tưởng.

Kinh Lăng-già nói: “Biết tự tâm hiện lượng thì vọng tưởng chẳng sanh”, và: “Ta nói rằng, thức vọng tưởng diệt gọi là Niết-bàn”.

2. Sự thực hành của ý thức

Trong tám thức, cái chúng ta có thể chủ động làm cho nó hoạt động nhiều nhất là ý thức. Cái tích tập nhiều mê lầm, nhiều nhiểm ô nhất cũng là ý thức. Nên mọi sự thực hành, mọi sự chuyển thức đều bắt đầu nơi ý thức. Câu nói “như lý tác ý” cho thấy rõ điều này.

Người ta đi đến sự thật bằng Văn, Tư, Tu.

Văn: là nghe. Trước hết là nghe những lời chỉ dạy từ những bậc giác ngộ. Nghe để mà tin, nhìn ra hướng đi, để thấy việc gì cần làm, điều gì cần bỏ. Nhưng sự tin này vẫn chưa rõ ràng, cần phải trải qua suy nghĩ, phân tích, thẩm định.

: là tư duy. Bằng tư duy niềm tin sẽ trở nên vững vàng. Niềm tin được thanh lọc, được trui rèn qua tìm hiểu bằng lý trí sẽ đưa đến tin chắc, không thể khác được.

Tu:thực hành. Khi đã tin, đã thấy rằng sự thực không thể nào khác, con đường không thể nào khác, người ta dấn thân vào thực hành.

Sự thực hành của chúng ta do ý thức đảm nhiệm, vì chúng ta chưa có cái gì cả ngoài ý thức có mặt lúc này. Hai khả năng chính của ý thức là:

1. Sự tập trung , chuyên chú, sự an định, an trụ nơi một đối tượng, một chủ đề. Cái này Phật giáo gọi là Chỉ, hay Định.

2. Sự quan sát, sự quán tưởng (nhìn thấy bằng tưởng tượng), sự nhìn thấy. Cái này Phật giáo gọi là Quán.

3. Hai cái này vận hành cùng lúc thì gọi là Chỉ Quán song tu hay Chỉ Quán đồng thời. Những phương pháp Phật giáo để chuyển hóa tâm thức đều nằm trong ba cái này.

Chúng ta xem xét ba cái ấy được áp dụng trong thực hành Duy thức như thế nào.

1. Chỉ. Trong bối cảnh Duy thức, Chỉ là sự tập trung, sự an trụ vào cái bản tâm thanh tịnh, cái tâm khi chưa nhiễm ô, cái tâm khi chưa biến động. Kinh Lăng-già nói là an trụ như như:

“Bồ tát do chánh trí này chẳng lập danh tướng, chẳng phải không lập danh tướng, lìa bỏ vọng kiến dựng lập và phá hủy, biết danh tướng chẳng sanh, ấy gọi là Như Như. Bồ tát trụ Như Như ấy đạt cảnh giới không thật có nên được Hoan Hỷ địa của Bồ-tát”.

Chỉ là an trụ trong tánh Như:

“Con đường Nhất thừa này được nhận biếtchứng ngộ như thế nào? Sự nhận biết Nhất thừa có được khi không có sự khởi sanh của phân biệt bằng cách an trụ trong thực tại của tánh Như (LV1. Suzuki)”.

“Hiểu ba cõi như huyễn, phân biệt quan sát sẽ được như huyễn tam muội. Đến chỗ tự tâm hiện lượng không chỗ có, được trụ Bát-nhã-ba-la-mật”.

 Lấy vài thí dụ được lập đi lập lại trong kinh Lăng-già, thì chỉ hay an trụ là:

Trụ vào đại dương, không trụ vào sóng.

Trụ vào tấm gương, không trụ vào bóng.

Trụ vào bầu trời, không trụ vào mây nổi.

Trụ vào hư không, không trụ vào hoa đốm…

Tóm lại, trụ vào “cái chẳng sanh chẳng diệt là trí”, không trụ vào “cái sanh diệt là thức”.

Thiền chỉ là an trụ vào Chân Như, mặc dù ở những giai đoạn đầu, Chân Như là chỉ khái niệm, chưa phái là thực tại.

“Này Đại Huệ, cái gì là Thiền có đối tượng là tánh Như? Khi thiền giả nhận biết rằng sự phân biệt ra hai hình thức của vô ngã chỉ thuần là tưởng tượng, và hễ chỗ nào thiền giả an trụ trong thật tánh Như Như (Yathabhuta) thì chỗ ấy không có sự sanh khởi của phân biệt. Ta gọi đấy là Thiền có đối tượng là tánh Như (Tathata).

2. Quán

Thiền quán là “quán sát nghĩa”:

“Này Đại Huệ, cái gì là thiền quán sát nghĩa? Đó là thiền vượt khỏi các tướng nhân và pháp, tướng riêng và tướng chung, các ý niệm ta người và cả hai… của các nhà triết học chấp thủ, những cái đó điều không thể nắm bắt. Các thiền giả tiến hành việc quán sátthuận theo nghĩa vô ngã của các pháp và tiến bộ lên các địa Bồ-tát. Đây là thiền quán sát nghĩa”.

Quán là quán sát, phân tích tìm hiểu, để thấy được hai vô ngã, thấy ra tất cả các pháp là Không, như huyễn:

“Bồ-tát thành tựu bốn điều thì được đại phương tiện tu hành:

a. Khéo phân biệt tự tâm hiện: Bồ-tát đi đến chỗ thấu hiểu rõ ràng rằng ba cõi này không là gì ngoài chính cái tâm, không có ngã và cái thuộc về ngã, không dao động, lìa đến và đi. Do tập khí huân tập từ vô thủy, các thứ hình tướng và hành động tương tác, và từ các vọng tưởng phân biệt mà có ra thân thể, tài sản, thế giới…

b. Quán tất cả bên ngoài là không có tự tánh. Nghĩa là tất cả sự vật đều như ảo ảnh, như mộng, như tóc rủ… Mọi sự đang có mặt là do vọng tưởng chấp trước từ vô thủy huân tập mà thành, quán sát tất cả sự vật bên ngoài là vô tự tánh.

c. Lìa kiến chấp sanh trụ diệt. Tất cả như huyễn mộng, mọi đặc tính ta và cái khác, chung cả hai, đều chẳng sanh. Thấy rằng thế giới bên ngoài chỉ hiện hữu tùy thuộc vào tâm, vốn không có tự tánh. Thấy thức chẳng sanh, các duyên không hợp tụ, tất cả là vọng tưởng duyên sanh. Ba cõi, tất cả các pháp trong ngoài đều bất khả đắc. Thấy mọi sự lìa tự tánh thì chấp có sanh bèn dứt. Biết tất cả các pháp tự tánh như huyễn, không từng sanh ra… bèn được Vô sanh pháp nhẫn. Được Vô sanh pháp nhẫn thì tự nhiên lìa kiến chấp sanh trụ diệt.

d. Tự giác thánh trí thiện lạc. Nghĩa là được vô sanh phấp nhẫn, trụ địa thứ tám của Bồ-tát, được lìa tâm, ý, ý thức, năm pháp, ba tự tánh, hai tướng vô ngã, được ý sanh thân”.

Lấy những ví dụ trong kinh Lăng-già, quán là quán thấy sóng là không thật, vô tự tánhnhư huyễn. Xa lìa tướng sóng thì sóng chính là đại dương toàn nước. Tất cả các tướng thế gian chính là thật tánh, là tánh Không, là tánh Như. Nói theo thuật ngữ Duy thức, Biến kế sở chấp tánh chính là Viên thành thật tánh.

Các ví dụ khác cũng đều như vậy.

3. Chỉ Quán song tu: Là ở nơi tánh (chỉ) mà thấy các tướng (quán) là Không, như huyễn. Và ở nơi tướng thì thấy tướng chẳng lìa tánh, tướng chính là tánh. Chỉ quán song tu là tánh tướng đều Như Như.

 

III. Đi vào con đường Duy thức

Với sự miệt mài làm việc trên ý thức, với công phu miên mật Chỉ, Quán, và Chỉ Quán song tu, tới một lúc nào, khi những vọng tưởng tập khí mỏng dần, người ta đạt được sự thật về duy tâm duy thức.

Dùng chữ của kinh Lăng-già, người ta có một “chuyển y” lần đầu tiên. Nhờ cái chuyển y này người ta mới thực biết tâm là gì, thức biến là gì, vọng tưởng là gì, tánh Không là gì, chỉ là an trụ vào cái gì, quán thấy như huyễn là gì… Người ta đạt đến căn bản trí, mà hệ thống Duy thức gọi là Thông Đạt vị hay còn gọi là Kiến Đạo vị chung cho tất cả Phật giáo.

Thông Đạt vị là giai đoạn thứ ba trong năm giai đoạn: Tư Lương vị, Gia Hạnh vị, Thông Đạt vị, Tu Tập vị, và Cứu Cánh vị. Năm giai đoạn này là chung cho tất cả các con đường, tất cả các tông phái của Đại thừa.

Hai giai đoạn đầu Tư Lương vịGia Hạnh vị chưa thật sự “an trụ Duy thức”, chưa thật sự biết “tánh Duy thức”:

“Cho đến khi chưa biết rõ xác quyết, dù cầu an trụ trong tánh Duy thức, đối với hai thủ ngầm ẩn, còn chưa thể hàng phục tiêu diệt” (Tư Lương vị, Luận Thành Duy Thức).

Thông Đạt vị là đã thực sự biết “tánh Duy thức” là gì và an trụ được trong thực tại đó:

Nếu khi trong cảnh duyên

Biết đều không chỗ đắc

Bấy giờ trụ (trong tánh) Duy thức

lìa tướng hai thủ.

Đây là thực sự thông hiểu tánh Không, tánh Như, tánh Duy thức, lìa được chủ thể và đối tượng ở mức độ thô để an trụ vào thực tại tánh Không.

Từ đây mới có sự tu hành thực sự (Tu Tập vị), có con mắt thanh tịnh để thấy rõ con đường (Pháp), cái gì là tánh Như, tánh Không và những cái gì là chướng ngại ngăn che tánh Như, tánh Không. Hành giả đích thực là người thấy phiền não chướngsở tri chướng cụ thể như những tảng đá chắn đường trước mặt. Từ đây sự thực hành trở nên cụ thể, vì đã nhìn thấy sáng rõ mọi sự cả hai mặt tánh, tướng. Từ đây, người ta thực sự học kinh, vì kinh điển không còn là ngôn ngữ, ý niệm mà đã trở thành những thực tại cụ thể.

Từ đây, nhờ bước vào con đường thấy nên việc tu hành trở nên minh bạch, cụ thể và dễ dàng. Sự tu hành trở nên giản dị mà sâu xa như những lời chỉ dạy về Thiền của Lục tổ Thiền tông Huệ Năng:

“Thiện tri thức! Sao gọi là ngồi thiền? Trong pháp môn này không ngăn không ngại, đối với cảnh giới tốt xấu ở ngoài mà tâm niệm chẳng khởi tưởng, gọi là Ngồi; trong thấy tự tánh mình chẳng động gọi là Thiền.

Thiện tri thức! Sao gọi là thiền định? – Ngoài lìa tướng là Thiền; trong chẳng loạn là Định. Nếu ngoài còn bám theo tướng, thì trong tâm sẽ loạn. Nếu ngoài lìa tướng thì trong tâm ắt chẳng loạn. Bản tánh mình vốn tự tịnh tự định, chỉ vì thấy cảnh phân biệt mà thành loạn động.

Này thiện tri thức! Ngoài lìa tướng tức là Thiền; trong chẳng loạn tức là Định. Ngoài thiền trong định, ấy là thiền định. Trong Kinh Bồ-tát giới nói: “Bản tánh ta vốn vẫn thanh tịnh”.

Thiện tri thức! Tự tánh Chân Như mình khởi niệm, sáu căn tuy có thấy, nghe, hay, biết mà chẳng nhiễm muôn cảnh, chân tánh vẫn thường tự tại. Thế nên kinh nói: “Thường khéo phân biệt tướng các pháp mà ở trong đệ nhất nghĩa hằng chẳng động”.

Thiện tri thức! Ở trong niệm niệm, tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự tu tự hành, tự thành Phật đạo”.

 (Văn Hóa Phật Giáo số 133)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1645)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1575)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1496)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1077)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1466)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1411)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1333)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1381)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1710)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1971)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1434)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1095)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1429)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2025)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1471)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1552)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1389)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2905)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1377)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1410)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1723)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1680)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1633)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1476)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2643)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1603)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1613)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1404)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1424)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1616)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1565)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1444)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1431)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1520)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2202)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1547)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1511)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1621)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1838)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1534)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1412)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1669)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1422)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1701)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2380)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1471)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1956)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1681)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1760)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1620)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1955)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1685)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1441)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1729)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1582)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1548)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1337)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1254)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1297)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1528)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant