Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tà áo Cung Trời Tushita - Truyền Thuyết Về Cuộc Đời Của Đại Luận sư Vô Trước

26 Tháng Chín 201000:00(Xem: 22436)
Tà áo Cung Trời Tushita - Truyền Thuyết Về Cuộc Đời Của Đại Luận sư Vô Trước

Chúng ta biết rằng, trường phái Duy Thức Học (Vijnànavàda) Phật giáo ra đời vào khoảng thế kỷ thứ V.TL; và một trong những người được xem là Tổ sư của trường phái này là Ngài Vô Trước (anh em cùng mẹ khác cha với Ngài Thế Thân), cả hai đều là Đại luận sư của trường phái triết học Duy Thức, một trường phái triết học đặc thù của Phật giáo mà tầm vóc và sự ảnh hưởng của nó, về mặt lịch sử, không thua kém gì dòng triết học Trung Quán của Ngài Long Thọ (Nagàrjuna). Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA, nguyên bản tiếng Tây Tạng của CANG SKYA. YESHES BSTAN PAI' I SGRON ME, bản dịch Anh ngữ của JOE WILSON.

Phần I . Kệ văn

Trong Manjushri Root Tantra (Manjushrimlakapa) truyền tụng rằng, Đức Thế Tôn trước khi vào diệt độ, Ngài đã cho biết trước rằng, 900 năm sau, sẽ có một Đại sỹ ra đời xiển dương Luận tạng, tên là Asanga. Bài kệ tiên đoán đó được ghi lại nguyên văn như sau:

"Chín trăm năm sau có một người tăng sỹ,
Vị ấy tên là Asanga,
Ngài sẽ chuyên chú vào giáo nghĩa của luận thư
Và sẽ khéo biện biệt giải thuyết.
Với biện tài vô ngại,
Vị thầy của thế gian,
Sẽ có thiên tư về luận thuyết,
Sự tựu thành của thông tuệ này
Sẽ đến từ sức thần của Mạn đà la-
Một vị nữ sứ giả của Sla;
Thông qua năng lực này mà thiện tâm trồi dậy;
Ngài sẽ tập hợp các giáo nghiã trọng yếu của luận thư.
Thọ mạng của Ngài sẽ kéo dài một trăm năm mươi năm,
{Rồi sau đó} khi thân Ngài tan rã;
Nơi Thiên cung, Ngài lại trở về;
Với niềm phúc lạc vô biên,
Ngài dạo chơi trong vòng hiện hữu.
cuối cùng, Đại sỹ sẽ chứng ngộ tuệ giác vô thượng".

Nguyên tác tiếng Tây Tạng :

Thogs Med Ces Bya'i Dge Slong Ni
Bstan Bcos De Ni Don La Mkhas
Mdo Sde Nges Don Drang Ba'i Don
Rnam Pa Mang * Po Rab Tu 'Byed
'Jig Rten Rig Pa Ston Bdag Nyid
Gzung 'Byed Ngang Tshul Can Du 'Gyur
De Yi Rig Pa Grub Pa Ni
Sa La'i Pho Nya Mo Zhes Brjod
De Yi * Sngags Kyi Mthu Yis Ni
Blo Ni Bzang Po Skye Bar 'Gyur
Bstan Pa Yun Ring * Gnas Bya'i Phyir
Mdo Yi De Nyid Don Sdud Byed
Lo Ni Brgya Dang Lnga Bcur 'Tsho
De Lus Zhig Nas Lha Yul 'Gro
'Khor Ba Rnams Su 'Khor Ba Na
Yun Ring Bde * Ba Rjes Myong Nas
Bdag Nyid Chen Po Mthar Gyis Te
Byang Chub 'Thob Par 'Gyur * Ba Yin
Zhes Gsungs Pa'o*

Bản dịch Tiếng Anh:

[When nine hundred years have passed,]
A monk named Asanga
Will be expert in the meaning of the treatises
And will in many ways discriminate
The sủtras of definitive and interpretable import.
By disposition a teacher of worldly knowledge,
He will have a nature of explaining the texts.
The achievement of the knowledge for that
Will come through the power of the mantra
Of she called Lady Messenger of Sâla;
Through its power good mind will arise.
In order that the teaching might long remain
He will condense the essential meaning of the sutras.
He will live one hundred and fifty years
And, his body disintegrating,
will go to a country of the gods.
Having long experienced bliss
Travelling in cyclic existence,
This great being will finally attain enlightenment.

Phần II. Giai thoại

Truyện kể rằng, sau ba lần nồi dậy của các nhà tư tưởng tiến bộ (abhidharma) thời đó tại Ấn Độ, lúc bấy giờ,có một người đàn bà đức hạnh phi thường thuộc dòng Bà la môn tên là Tịnh Đức (Gsal Ba'I Tshulkhrims). Bà nghĩ rằng, chánh pháp đã đến hồi suy vong do sự lạm thuyết của các học phái; nhưng ta, mang phận đàn bà, làm sao có thể xiển dương "giáo nghĩa thư" để bảo vệ chánh pháp. Suy nghĩ như thế, bà quyết định dùng sinh thức tuệ giác của mình để truyền cho con trai. Sau khi quyết định, bà đã lấy một người đàn ông dòng Kshatriya và hạ sinh Vô Trước. Sau đó, bà lấy một tu sỹ Bà la môn (brahmin) và hạ sinh đứa con thứ hai là Thế Thân. Trong suốt thời gian sinh dưỡng hai người con, bà không ngừng rèn luyện tâm thức chúng theo ý đồ của bà. Khi hai người con trưởng thành, chúng hỏi bà rằng:

- Thưa mẹ, cha của chúng con thuộc hạng người nào, và chúng con phải chọn nghề gì để nối nghiệp cha?

-Bà trả lời : Ta sinh dưỡng các con không phải để nối nghiệp cha, mà để học đạotruyền đạo.

Sau đó, Thế Thân đã đến Kashmir học đạo với Thầy Samghabhadra. Còn VôTrước thì vào tu kín trong động ở núi Chân Chim để tìm Thầy Maitreya học đạo. Suốt ba năm tu luyện trong động, nhưng Vô Trước không hề thấy được một dấu hiệu khả quan nào, và điều đó đã làm cho Ngài chán nản. Suy nghĩ như thế, Ngài vội bỏ hang động ra đi. Khi vừa bước ra, Ngài liền gặp một ông già đang mài thanh sắt lớn làm kim. Ngài hỏi: Ông làm cái gì vậy? Ông lão đáp kệ trả lời:

"Khi một người tu tập, rèn luyện nội tâm,
Thì không có điều gì mà không thành tựu,
Cho dù núi non có trở thành các bụi,
Sức mạnh của tâm thức sẽ vượt qua tất cả".

Nghe xong bài kệ, tâm Ngài trở nên tươi tỉnh, phấn chấn, và Ngài quyết định trở lại hang động để tu tập. Thế rồi, ba năm trôi qua, Ngài cũng không tìm thấy được điều gì, trong lòng buồn phiền, Ngài lại bỏ hang động ra đi. Lúc ấy Ngài chợt thấy ảnh tượng của những giọt nước đang xói mòn vách đá trong hang động, bỗng dưng tâm Ngài bừng tỉnh; rồi Ngài trở lại hang tu tập. Một lần nữa, ba năm lại trôi qua, giờ đây trước mắt Ngài đầy dẫy nỗi ưu phiền, Thầy Maitreya vẫn biền biệt tung tích. Ngài bèn bỏ hang động ra đi. Lúc ấy, Ngài lại thấy ảnh tượng của một vách đá bị xói mòn bởi những cánh chim bay, tâm thức Ngài bỗng dưng định tỉnh, và quyết chí trở lại hang đá tu tập. Thế rồi, ba năm nữa lại trôi qua, buồn phiền và chán nản lại kéo về trong tâm thức, rồi Ngài lại từ giã ra đi. Nhưng lần này, khi vừa bước ra khỏi hang đá, Ngài lại gặp một con chó sói tội nghiệp đang nằm dài, quằn quại. Phần nửa thân sau của nó thì đang lở lói bởi sự gặm nhắm của côn trùng, phần nữa thân trước của nó thì phều phào rên rỉ. Nhìn thấy cảnh đó bỗng nhiên tình thương thống thiết của Ngài trào dâng một cách phi thường; và Ngài bèn tìm cách cứu giúp nó. Lúc đó, Ngài nghĩ rằng, ta nên cắt bớt thịt của mình, rồi dùng nó để dời những côn trùng đang gặm nhắm trên thân con chó sói tội nghiệp này. Ngài liền đi mượn một con dao và tự tay cắt thịt của Ngài. Thịt đã cắt xong, nhưng vì sợ rằng, nếu lấy tay mà bắt những côn trùng thì sẽ làm chúng chết, và làm cho con chó sói càng đau đớn thêm. Đắn đo suy nghĩ một lúc, Ngài quyết định dùng chính cái lưỡi của mình để liếm những côn trùng ra khỏi những chỗ bị lở trên thân con chó sói. Trong lúc Ngài vừa liếm vào vết lở, thì bỗng dưng Bồ Tát Maitreya (Di Lạc) xuất hiện.

-Vô Trước liền hỏi:

"Con đã tu tập qúa lâu trong hang đá để chờ Ngài, nhưng tại sao không hề thấy một dấu hiệu nào của Ngài?"

-Bồ Tát đáp:

"Ta đã ở trong đó từ lúc ban đầu, nhưng do tâm thức của ngươi bị ngăn che bởi các dục vọng, ưu phiền nên ngươi không nhìn thấy ta đó thôi. Nay do ngươi phát khởi một tình thương vô bờ nên mọi chướng ngại trong tâm thức của ngươi đã băng tiêu, vì thế mà ngươi thấy ta".

Bấy giờ Vô Trước cầu xin Bồ Tát truyền pháp tu hành, Bồ Tát bảo Vô Trước hãy nắm lấy tà áo của Ngài, rồi họ cùng bay lên cung trời Tushita (Đâu Suất). Trên cung điện nhà trời, Vô Trước ở lại một buổi sáng để học đạo, lúc trở về trần gian mới hay rằng, mình đã ở trên cung trời 53 năm rồi.2

Trên cung trời Tushita, Bồ Tát Maitreya đã truyền tâm pháp toàn thiện cho Vô Trước và năm phần giáo3, mà sau này Ngài đem về truyền bá ở trần gian.

Phần III. Kệ Tán

Tôi kính lễ Đại sỹ Vô Trước
Người cứu độ trần gian,
Đã tiếp nhận nguồn mạch diệu âm từ dòng thánh thiện
Thúc dậy từ sức mạnh của suối nguồn đại định,
Dòng suối nguồn (giáo nghĩa) thiêng liêng
Tuôn chảy từ miệng của Bồ tát Maitreya tôn quý.

Nguyên bản Tiếng Anh:

I bow down to he, called Asanga who,
in order to help all the world,
Received with the vessel of listening,
the stream of nectar
Drawn by the power of the meditative stabilization
of the Stream of Doctrine- A stream of nectar poured from the vessel [whose] mouth [was] the noble Maitreya.

* * *

1 Thời kỳ Phật giáo Luận thư, xem Tâm Lý Học Phật Giáo, Thích Tâm Thiện, NXB.Tp.HCM, 1998

2 Trong chú thích bản cổ - Luận thư của Asanga ghi chú rằng, "một buổi sáng (hôm đó) trên cung điện nhà trời bằng sáu tháng ở trần gian.

3 Năm phần giáo: nguyên bản tiếng Tây Tạng gồm có: MDO SDE RGYAN.P5521,MNGON RTOGS RGYAN.P5184,DBUS MTHA'RNAM 'BYED.P5522,CHOS DANG CHOS NYID RNAM 'BYED.P5523,RGYUD BLA MA.P5525.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7800)
Thưa Đại Vương, những người, có được tài sản lớn, mà không bị chúng làm say đắm... rất hiếm hoi trên đời này... Diệu Liên Lý Thu Linh
(Xem: 7842)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
(Xem: 8958)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 26131)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13812)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 27971)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19852)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7777)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7615)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
(Xem: 7480)
Khái quát trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật giáo và chung cho cả nền văn hóa thế giới... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 8033)
Cũng giống như trong Phật giáo, vạn pháp không hiện hữu, chỉ có mối liên hệ của chúng là hiện hữu... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 9744)
Trên thực tế, tất cả giáo huấn của Đức Phật đều nhằm giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Phương pháp tiếp cận thật sự rất hợp lýthực tiễn.
(Xem: 22736)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 16925)
Khi Đức Phật ra đời, Ngài đã chỉ bày rõ ràng, cặn kẽ cho người xuất gia cũng như người tại gia ở từng địa hạt một của tâm linh... HT Thích Như Điển
(Xem: 8550)
Đức Phật A Di Đà không tự làm cho tội của chúng sanh tự tiêu hủy, mà cảnh giới của Ngài là nơi những chúng sanh ấy có thể nương nào đó để tồn tạitiến tu thêm nữa... HT Thích Như Điển
(Xem: 10401)
Phương pháp chuyển hóa tâm thức của Đạo Phật không chỉ là một vấn đề niềm tin mà cũng là một niềm tin đạt đến được qua thiền phân tích... Đức Đạt Lai Lạt Ma
(Xem: 10580)
Sau khi dạy cho chúng ta hiểu khổ là gì và nguồn gốc của khổ, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường diệt khổ, tức là Bát Chánh Đạo...
(Xem: 11273)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần TàiThổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
(Xem: 9893)
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người”.
(Xem: 10567)
Muốn được giải thoát, trước hết chúng ta phải quan sát sự vật một cách thật cặn kẽ để có thể biết được và hiểu rõ bản chất thật sự của chúng.
(Xem: 12707)
Ý niệm về kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa song hành với ý niệm về hai sự thật: Sự Thật Tương ĐốiSự Thật Tuyệt Đối.
(Xem: 8800)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
(Xem: 19868)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20829)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21381)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13438)
Phật pháp ẩn tàng trong tất cả sự sự vật vật, và con đường giác ngộNhư Lai tuyên thuyết vốn dành cho tất cả chúng sinh có duyên được tiếp cận với đạo Phật.
(Xem: 10568)
Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh...
(Xem: 9540)
Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh...
(Xem: 26762)
Theo giáo lý đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai, ngoại trừ chính cá nhân người đó.
(Xem: 10744)
Những Tỷ-kheo trong hội chúng bậc Thánh rõ biết “Đây là khổ”. Vì thấy rõ khổ nên nhàm chán, viễn ly, không tham danh vọng...
(Xem: 12128)
Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng, không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã)...
(Xem: 30894)
Đây là bộ sách trích lục những từ ngữ trong phần “Chú Thích” và “Phụ Chú” của bộ sách GIÁO KHOA PHẬT HỌC do chúng tôi soạn dịch...
(Xem: 14135)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
(Xem: 11140)
Môn Nhân minh học Phật giáo dạy chúng ta tư duy đúng đắn để có nhận thức đúng đắn, là chìa khóa của mọi thành công ở đời.
(Xem: 11092)
Ý thức sâu sắc của người Phật tử đối với tầm quan trọng thực tiễn của hiện tại khiến cho họ năng động hơn, tỉnh táo hơn, làm việc hết mình trong hiện tại.
(Xem: 11241)
Đạo Phật nhắc nhủ chúng ta, muốn giác ngộgiải thoát, đi theo con đường Phật chỉ bày thì phải đi, phải tu, chứ không thể nói suông được.
(Xem: 11634)
Tất cả Phật tử chúng ta hãy sống thiện như những cái cây có bộ rễ toàn hút những chất ngọt trong đất. Nhất định đời sống chúng ta sẽ an lạc hạnh phúc.
(Xem: 12740)
Để dạy Vô ngãVô phân biệt trong khi hành động theo cách phân biệt kỳ thị là không phù hợp lời nói với hành động.
(Xem: 24051)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 14914)
Hiện tại là giờ phút duy nhất mà mình có thể chọc thủng được bức màn thương đau, bức màn vô minh để có thể tiếp xúc được ngay với an lạc, với hạnh phúc, với tuệ giác.
(Xem: 11645)
Góp duyên để người xuất gia hoàn thành sứ mạng thiêng liêng đồng nghĩa với hạnh nguyện hộ pháp.
(Xem: 20256)
Nếu ai bị ái làm khổ thân mà diệt được thì gọi là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô dư (Niết-Bàn).
(Xem: 10610)
Trong các thứ hạnh phúc, được thực tập và sống theo lời Phật dạy là an vui, hạnh phúc lớn nhất. Nhờ đó, ta có được bình yên, hạnh phúc thật sự...
(Xem: 10386)
Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
(Xem: 12283)
Xin hãy đọc Kinh điển với tâm sáng suốt thanh tịnh, không vội tin chắc vào bất kỳ điều gì, mà phải nỗ lực thông qua sự hành trì thực nghiệm...
(Xem: 11499)
Sự thật về mọi sự là vô thường, khổ, vô tự tánh, vô ngã, giả hợp, như mộng, như huyễn được đạo Phật gọi là chân lý tuyệt đối, tối hậu (chân đế).
(Xem: 14300)
Cùng với chánh niệm thường trực, tàm và quý chính là hai nhân tố vô cùng quan trọng để mỗi người tự răn nhắc mình hướng thượng và thăng hoa.
(Xem: 11953)
Do định sinh trí huệ, dùng trí huệ này quán sát các pháp sẽ thấy biết như thật, quán sát vũ trụ vạn vật đúng như nó là, không sai sót mảy may.
(Xem: 24619)
Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc...
(Xem: 12349)
Chúng ta phải cố gắng loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực và phát triển những cảm xúc tích cực - vô hạn lượng - đặc biệt trong sự thực hành Phật Giáo...
(Xem: 22278)
Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
(Xem: 12563)
Đối với nhà Phật cho là con người ai cũng có Phật tánh, mà có Phật tánh tức là có tánh tốt.
(Xem: 12721)
Có thể nói, sự hiểu biết đúng đắn thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật sẽ tạo cho mỗi người một ý thức trách nhiệm rất cao đối với cá nhân mình và xã hội.
(Xem: 12630)
Đã là người đệ tử thì chúng ta phải tin và hành theo lời dạy của Phật, đó mới đúng là người đệ tử chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, hiếu nghĩa trọn vẹn.
(Xem: 16816)
Có một thời gian Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên phụ trách trông coi việc dựng thiền-thất tại vườn Lộc-Dã; một hôm trong lúc Tôn-giả đang đi kinh hành trên khoảng đất trống...
(Xem: 13749)
Bất cứ một hiện tượng nào được phát sinh ra cũng đều phải nhờ vào một sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện...
(Xem: 13037)
Cách tốt nhất để vượt thắng những điều không may, hay những thứ xui xẻo hãy tự mình làm nên những công đứcthiền quán về tánh không...
(Xem: 13494)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly...
(Xem: 12574)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14488)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant