Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật giáo có mối liên hệ với Bà La Môn giáoẤn Độ giáo hay không?

14 Tháng Mười 201000:00(Xem: 14896)
Phật giáo có mối liên hệ với Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo hay không?

Vào tháng 12-1999, nhiều nhà nghiên cứu về Ấn Độ giáo từ các miền khác nhau trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Đô, Bỉ và Hoa Kỳ... gặp nhau tại New Delhi để thảo luận về vấn đề Phật giáoliên quan đến Bà La Môn giáoẤn Độ giáo hay không? Các học giả đưa ra giả thiết rằng Phật giáo là một xu hướng chống lại nghi thức tôn giáo Vệ đà hoặc một tôn giáo độc lậptruyền thống riêng biệt.

Vấn đề càng phức tạp hơn cho những người Ấn có tín ngưỡng mạnh mẽ, hoặc một số những người khác thiên về lý thuyếtlịch sử, hoặc một số những người khác cho là đã có sự giải thích sai trong sự nghiên cứu tiền sử. Thực tế, cách tiếp cận khác nhau của những nhà nghiên cứu đó cho thấy tính nghiêm túc, phức tạpý nghĩa của vấn đề này.

Hơn bốn thập niên qua, sự khác nhau trong những cách tiếp cận này đã gây ra nhiều vấn đề trong việc nghiên cứu tôn giáo. Và kết quả là nhiều tác phẩm văn học trong các ngôn ngữ khác nhau như Anh, Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật, Pháp và Đức... đã được xuất bản liên quan với chủ đề này. Trong lời giới thiệu cuốn sách 2500 năm của đạo Phật (2500 Years of Buddhism, New Delhi, 1956), một trong những học giả Ấn Độ nổi tiếng, ông S. Radhakrishnan đã mô tả Phật giáo như "một nhánh của tín ngưỡng cổ xưa hơn đạo Hindu, có lẽ là một dị giáo". Từ khi Bà La Môn giáo thống trị lĩnh vực học thuật của Ấn Độ khoảng một thiên niên kỷ, chắc chắn là những học giả Ấn Độ, tương tự như S. Radhakrishnan đã cố gắng tóm kết lịch sử Phật giáo Ấn Độmở rộng từ quan điểm riêng này.

Xung đột giữa Phật giáoBà La Môn giáo, sự biến đổi di sản Phật giáo tại Ấn Độ và sự biến mất Phật giáo (tôn giáo đã từng là niềm tin sống động từ đất Ấn suốt trong nhiều thế kỷ thời đầu trung cổ) là những nguyên nhân để các nhà nghiên cứu tìm hiểu về nền văn minh Ấn Độ cổ xưa và sự truyền bá quan điểm Bà La Môn giáo suốt thời kỳ trung cổ cho đến ngày nay. Tuy vậy, Phật giáo cần phải được nghiên cứu từ quan điểm Phật giáo. Những quan hệ của nó với Bà La Môn giáoẤn Độ giáo cần phải được quan sát từ quan điểm lịch sử cụ thê bằng phương pháp khoa học.

Bài viết này tập trung vào mối bất đồng của chúng tôi về những lý thuyết hiện thời về nguồn gốc Phật giáo có mối liên hệ với Bà La Môn giáoẤn Độ giáo.

dieumuanguoian
Một điệu múa của người Ấn

1. Nguồn gốc Phật giáo

Dường như ở Ấn Độ có một khuynh hướng mô tả Phật giáo như là một giáo phái của Ấn Độ giáo, xem Phật Thích Ca là một vị Hindu, và tô màu Ấn Độ giáo giống như công giáo để chống Vệ đàtà thuyết như Đức Phật Thích Ca. Lý thuyết lợi hại này đã được truyền bá kỹ lưỡng và cẩn thận tại Ấn Độ khiến những học giả và sử gia phải mất nhiều thời gian để loại trừ những ảo tưởng này và vạch rõ phương cách cho việc nghiên cứu Phật giáo nghiêm túc từ quan điểm lịch sử bằng phương pháp khoa học. Khuynh hướng này tại Ấn Độ đã cho thấy sự hiểu biết rộng rãi của đa số quần chúng quan tâm tới Phật giáo và chủ yếu cho thấy thái độ chung của người Ấn khi nhìn Phật giáo bằng những cách giải thích của họ.

Nói chung, hiện nay phần lớn trong cuộc sống người Ấn có một lòng tin mạnh mẽ đối với Ấn Độ giáo hơn là với Phật giáo, mặc dù Phật giáoảnh hưởng sâu xa hơn Ấn Độ giáo cả về học thuyết lẫn thực nghiệm.

Thông thường dễ thấy rằng Ấn Độ giáo (thật ra là một tôn giáo mới xuất hiệnẤn Độ), đã chuyển đổi hầu hết dân Ấn Độ thành tín đồ của mình, giữ độc quyền không những về tâm linh, mà còn cả về các lĩnh vực đời sống, tư tưởng chính trị, kinh tế và khoa học. Tuy nhiên, xu hướng này – theo cách tư duy chính thống – đã tách người Ấn Độ ra khỏi cộng đồng thế giới, khi nhân loại đã bước vào thế kỷ thứ XXI.

Thái độ đối với Phật giáo của những người Hindu nói chung cho rằng Phật giáo là một phần của Ấn Độ giáo, Phật giáo hòa trộn vào trong Ấn Độ giáo, Đức Phật Thích Ca là một nhà đại cách tân Hindu và đồng thời là một vị thần Hindu vĩ đai.

Sự việc này khiến chúng ta phải khảo sát cẩn thận và đưa ra cách suy nghĩ khác rằng, Phật giáo là một tôn giáo độc lập và riêng biệt, không thể nghiên cứu vượt ra ngoài nhận thức lịch sử và khoa học. Người ta có thể nhận thấy rằng, hiện tại người Ấn Độcảm giác tự hào về tôn giáo đáng kính yêu, về nền văn hóa Vệ đà và những học thuyết thần thánh của họ mỗi khi chúng ta tình cờ gặp họ hoặc thảo luận với họ.

Quan điểm của nhiều học giả đều cho rằng có một số học giả tâm huyết với Vệ đàBà La Môn giáo (những sử gia Ấn Độ hiện đại, những người lãnh đạo và những nhà tư tưởng quốc gia) đều mô tả Phật giáo như một phần của tín ngưỡng cổ xưa hơn Hindu và có lẽ là một phân giáo, lúc đó được xem như tà giáo.

Một số học giả Hindu – chuyên chú về Phật học hoặc nghiên cứu vài vấn đề nào đó của Phật giáo hoặc vài tác phẩm về Phật giáokết luận rằng Phật giáo đã chịu ảnh hưởng sâu xa từ tư tưởng Vệ đà ngay từ nguồn gốc của nó và là một dị giáo của Bà La Môn giáo. Theo khảo cổ, ít ra, chúng ta không thể coi Phật giáo đơn thuần như một “tà giáo” đối chọi lại tính chính thống Ba La Môn đang phổ biến, mà ngược lại, Phật giáo cần nên được xem xét như một phương pháp thực nghiệm độc lập mang tính lịch sử – một phương pháp sống – và tạm gọi là một tôn giáo cổ xưa hơn Hindu.

Như được trình bày ở trên, lý thuyết hiện thời về nguồn gốc Phật giáo đã cho chúng ta biết rằng quan điểm của Vệ đàBà La Môn đã gây ảnh hưởng và giữ độc quyền không những về lĩnh vực hệ tư tưởng Ấn Độ, mà còn cả lĩnh vực nghiên cứu xã hộilịch sử về Phật giáo đối với Bà La Môn giáo. Lịch sử nguồn gốc của Phật giáo, nói gọn trong một câu, đó là chuyện ngoài đường phố của những trẻ Hindu mới lớn không quan tâm đến kiến thức lịch sử và khảo cổ tôn giáo Ấn Độ cổ xưa. Để phơi bày và làm minh bạch những đặc tính thật của Phật giáo, chúng ta có thể đặt vấn đề đúng đắn để xem Phật giáo có quan hệ như thế nào với tín ngưỡng Bà La Môn giáo chính thống cổ đại vào thời kỳ ban đầu.

2. Quan hệ Phật giáo với Bà La Môn giáo


Chúng tôi sẽ đề cập đến quan điểm của một trong những học giả Ấn nổi tiếng, ông S. Radhakrishnan, quan điểm của ông có thể được xem như một quan điểm đang phổ biến tại Ấn Độ về mối quan hệ giữa Phật giáoBà La Môn giáo. Các điểm nổi bật trong quan điểm của Radhakrishnan có thể được tóm tắt như sau: Đức Phật đã không cảm thấy rằng Ngài đang công bố một tôn giáo mới; Ngài sinh ra, lớn lên và từ trần như một Hindu; Ngài đã tuyên bố với sự nhấn mạnh mới về những lý tưởng cổ xưa của nền văn minh Indo – Aryan. Xu hướng ý thức hệ của nhà học giả Ấn Độ này về Phật giáo chủ yếu đề cập tới những diễn dịch mang tính truyền thống (Traditional Interpretation), duy vật (Materialistic Interpretation) và trào lưu chính thống (Fundamentalist Interpretation) của Phật giáo liên quan với Bà La Môn giáo chính thống.
Sự giải thích về truyền thống có nghĩa rằng Phật giáo vượt ra ngoài xu hướng chống đối nghi thức tôn giáo của các Brahmanas như những học giả Bà la môn đã nói. Thực tếlịch sử Ấn Độ cổ đại ghi nhận rằng có hai hệ tư tưởng đối lập đó là: thế giới – khẳng định đại diện bởi các đạo sư Brahmanas theo truyền thống Vệ đà (Bà La Môn giáo) và thế giớisiêu việt (thế giới – phủ định) đại diện bởi các bậc ẩn sĩ khổ hạnh Sa môn thuộc truyền thống phi Vệ đà (Phật giáo).

Về lịch sử, rõ ràng cả Phật giáo lẫn Bà La Môn giáođại diện cho hai truyền thống riêng biệt: truyền thống Vệ đàtruyền thống Sa môn. Thế nên, thật không thích hợp để thiết lập lý thuyết nguồn gốc Phật giáo từ Vệ đà được.

Sự giải thích theo duy vật của một vài học giả, dưới ảnh hưởng biện chứng theo duy vật lịch sử do Karl Marx đề xướng, nhằm tương quan với tư duy khổ hạnh và kiến tri – từ thời Đức Phật (624-544 trước Tây lịch) cho tới sự trỗi lên của chủ nghĩa tư bản và kinh tế thương mại tầng lớp trung lưu. Tuy nhiên, cách nhìn này hoàn toànsuy đoánviển vông, vì không có bằng chứng rõ ràng để chứng minh sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản trong cảm quan của người theo học thuyết Marx mà cũng không có chứng cớ tổ chức giai cấp trung lưu kiểm soát trọn vẹn kinh tế – tiền tệ xã hội ở thế kỷ thứ VII và thứ VI trước Tây lịch. Hơn nữa, thực không thể nào cho rằng những lý tưởng tinh thần của Bồ tát (Bodhisattva: sẽ trở thành Phật) được xác định bởi ý thức xã hội theo hệ quả của tiến trình vật chất; thực ra lối giải thích theo duy vật máy móc này chỉ là một bằng chứng bộc lộ sự thô thiển trong nghiên cứu của họ.

Còn giải thích theo trào lưu chính thống có nghĩa rằng đối với số ít người theo đạo Hindu thì Đức Phật là người phá vỡ tín ngưỡng sùng bái thần tượng Bà la môn, vì những yếu tố cơ bản nhất của Bà La Môn giáo thời kỳ tiền Phật giáo: tế lễ – hy sinhhọc thuyết bốn giai cấp, những điều bị Đức Phật chỉ trích. Mặc dù Đức Phật thuyết pháp, kêu gọi lòng từ bi đối với muôn loài, phải giới hạnh thanh tịnh, phải tuệ tri rõ ràng về sự tồn tại hoặc không tồn tại của một tự ngã thường hằng... nhưng cuối cùng toàn bộ lâu đài Phật giáo cũng bị suy tàn và sụp đổ. Lời phê bình và lên án Phật giáo không chỉ đơn thuần liên quan tới triết họclịch sử của Phât giáo mà chính là khuynh hướng trào lưu chính thống đối với các tôn giáo khác. Như chúng ta đã thấy ở trên, Phật giáo được xem là có liên quan với Bà La Môn giáo như chủ trương của vài học giả Ấn Độ đại diện quan điểm truyền thống hiện đang nắm giữ độc quyền trong giới trí thức Ấn Độ. Đề tài này thường được đem ra thảo luận giữa các tôn giáo khác nhau, hoặc trong khuynh hướng ý thức hệ xã hội Ấn Độ và trong giới nghiên cứu của hàn lâm viên tôn giáo. Vài học giả Ấn Độ hiện đại, với niềm tin mạnh mẽ vào Vệ đàBà La Môn đã thử làm một sự đồng hóa học thuyết của Phật giáo với Bà La Môn giáo. Điều nhấn mạnh ở đây, họ muốn chỉ ra rằng Phật giáo, do bị ảnh hưởng sâu xa bởi tư tưởng Vệ đà, đã vượt ra khỏi xu hướng chống đối nghi thức của Brahmanas; nói cách khác, nó là một tà giáo hoặc một người theo dị giáo của Bà La Môn giáo.

3. Quan hệ Phật giáo với Ấn Độ giáo


Cả trong quan điểm của người Ấn bình thường lẫn người Ấn học thức uyên bác, Phật giáoẤn Độ giáo được xem như là một, vì có vài sự giống nhau về lý thuyếtthực hành của cả hai, thực ra Phật giáoẤn Độ giáo là hai hệ thống hay hai truyền thống tôn giáo tuyệt đối khác nhau.

P.V. Kane, một nhà Ấn Độ học nổi tiếng, đã sai lầm khi cho rằng: “Đức Phật là một nhà cải cách lớn đạo Hindu. Ngài đã không cảm thấy, hoặc tuyên bố là Ngài đang thành lập một tôn giáo mới mà cũng không tuyên bố từ bỏ đạo Hindu”. Tuy nhiên, khi chúng tôi nói về mối liên quan giữa Phật giáo với Ấn Độ giáo, thật là hữu ích nếu chúng ta khảo sát cẩn thận thuật ngữ “Hindu” từ góc độ lịch sử, ngôn ngữ và khảo cổ.

Quan hệ Phật giáo với Ấn Độ giáo cần phải xem xét từ quan điểm lịch sử và góc độ khoa học. Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại, cho rằng chính Đức Phật tuyên bố đã dạy con đường của bậc thánh Hindu cổ xưa và cho thấy rằng Đức Phật không cảm thấy Ngài đang công bố một tôn giáo mới. Từ “Hindu” không xuất hiện trong lời tuyên bố của Đức Phật; và Ngài cũng không đề cập tới những thánh nhân Vệ đà hoặc những nhà tiên tri Indo-Aryan hoặc Brahmanas là những đạo sư hướng dẫn Ngài tu tập.

Về phương diện ngôn ngữ, thuật ngữ “Hindu” là từ ngoại lai có nguồn gốc từ tiếng Ba Tư và Ả-rập, và tượng trưng cho những hình thức tôn giáo Bà La MônẤn Độ thời trung cổ. Từ Hinduism bắt đầu sử dụng trong các truyền thống tôn giáo Ấn Độ, thông thường với quan niệm để phân biệt với đạo Cơ Đốc và Hồi giáo tại Ấn Độ. Chúng ta không thể sử dụng từ Hinduism vào thời kỳ tiền Puran Bà La Môn giáo của Vệ đà và Upanisad, mặc dù đạo Hindu thời trung cổ đã lập nền tảng rồi mở rộng tới phạm vi nào đó trong tôn giáo Vệ đà, giống như đạo Do Thái trước sự giáng sinh của Jesus Christ không thể được gọi chính xác đạo Thiên Chúa mặc dù đạo Thiên Chúa được thành lập trước đạo Do Thái.

Về mặt khảo cổ học, không thấy sự xuất hiện từ “Hindu” trong bất kỳ nguồn tài liệu khảo cổ hoặc văn học Ấn Độ cổ đại, và chưa từng được khám phá từ thời Alberuni (khoảng 1030 Tây lịch). Có lẽ, đầu tiên ông ta đề cập tới người Ấn Độ phi Hồi giáo là “Hindus” có nghĩa là “Những người không theo đạo”. Thuật ngữ “Hindu”, một dạng của “Sindhu”, trước hết do người Ba Tư sử dụng, xuất hiện cùng với từ “Gadara”, một hình thức của “Gandhara” xuất hiên trong bia ký của vua Darius xứ Iran; và ở đây được dùng theo ý nghĩa địa lý là biểu thị cho dân tộc hoặc một đất nước sống dọc theo sông Sindhu. Trong Ba Tư cổ đại, “Sa” được phát âm như “Ha”; “Sindhu” được gọi “Hindu” từ đó tiếng Hy Lạp biến nó thành “Sintos” hoặc “Indos”, xuất phát từ tiếng Ba Tư và Ả-rập là Hindu và Hindustan; còn tiếng Anh gọi là Indian và India.

Như chúng ta thấy ở trên, Phật giáoẤn Độ giáo khác nhau hoàn toàn từ quan điểm lịch sử lẫn quan điểm ngôn ngữ và khảo cổ, mặc dù có phần giống nhau giữa Phật giáo sau này và một số giáo lý của Ấn Độ giáo. Có một bằng chứng mạnh mẽ về ảnh hưởng của Phật giáo trong ngôn ngữ cũng như trong nhưng học thuyết của Ấn Độ giáo; bởi vậy, phải thừa nhận rằng chúng ta không thể hình dung Phật giáo là một sự đồng hóa của Ấn Độ giáo (thực sự về sau họ có vay mượn một số thuật ngữgiáo lý quan trọng từ Phật giáo).

Chúng ta có thể kết luận, thật không công bằng khi cho rằng Đức Phật như một “Hindu”, hoặc một nhà cải cách lớn của Hindu giáo, vì không có Ấn Độ giáo vào thời của Ngài.

Từ thảo luận ở trên, chúng ta có thể kết luận rằng những lý thuyết hiện thời về nguồn gốc của Phật giáo và những mối quan hệ của nó với Bà La Môn giáoẤn Độ giáo đã được chi tiết hóa bởi những học giả Ấn Độ hiện đạiquan điểm Vệ đàBà La Môn, hoàn toàn chỉ là suy đoán. Hơn nữa, chính do hiểu rõ về mặt lịch sử, Phật giáo – một trào lưu chính thống nhất của phong trào chống lại Vệ đàBà la môn (truyền thống Sa môn) – đã xuất hiện như một tôn giáo riêng biệt và độc lập tại Ấn Độ vào thế kỷ VI trước Tây lịch không thể được xem là bị ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng Vệ đà. Ngược lại, cả Bà La Môn giáo lẫn Ấn Độ giáo, học thuyết về bốn giai cấp và sự hy sinh tế lễ đã bị Đức Phật chỉ trích, mặc dù hiện nay chúng vẫn còn hiện hữu trong những cộng đồng của đạo Hindu.

Chúng ta không thể nghiên cứu tôn giáo từ lập trường ý thức hệ riêng biệt này hoặc kia đơn thuần chỉ vì lòng tin của chúng ta hoặc đơn thuần bởi vì tình cảm đặc biệt của chúng ta đối với tôn giáo đó. Nếu vậy, cách nhìn của chúng ta sẽ bị phiến diệnchúng ta đang làm một công việc quan trọng về nghiên cứu so sánh các tôn giáo.

Thật sai lầm khi ủng hộ quan điểm Hindu hiện đại cho rằng chính Đức Phật tuyên bố đã đưa ra con đường của thánh nhân “Hindu” cổ xưa và để cho thấy rằng Đức Phật không xác định Ngài đang công bố một tôn giáo mới.

Hơn nữa, không có sự tương ứng hoặc thỏa thuận quan điểm cơ bản giữa Bà La Môn giáoPhật giáo thời kỳ ban đầu; hai truyền thống tôn giáo này có những nền tảng khác nhau trong kỷ nguyên Vệ đà tiền sử và trong thời Đức Phật tại thế.

Như chúng ta vừa đề cập ở trên về mặt ngôn ngữ và khảo cổ, từ “Hindu” có liên quan với tiếng Ba Tư và Ả-rập thời Ấn Độ trung cổ. Bởi vậy, chúng ta không có lý do chính đáng để dùng từ “Hindu” và “Hinduism” trong bối cảnh lịch sử vào thời của Đức Phật Thích Ca; còn mệnh đề đạo “Hindu” liên quan đến Ấn Độ thời tiền Hồi giáo thì cũng vô nghĩasai lạc. Đức Phật không phải là một nhà Hindu, cũng không là một nhà cải cách lớn của Ấn Độ giáo, vì không có đạo “Hindu” vào thời Ngài, mà chỉ duy nhấtBà La Môn giáo nguyên thủyVệ đà. Rõ ràng lời dạy của Đức Phật đã cải cách nhiều phương pháp tu tập không hoàn hảo của Vệ đà, nhưng Ngài đã không tuyên bố là một nhà cải cách. Và không có kinh điển Hindu cũng như của Bà La Môn nào nói đến Ngài như một nhà cải cách.
 


Sách tham khảo
1. Kalupahana, D.J., 1992, A History of Buddhist Philosophy, the University of Hawaii Press.
2. Joshi, L.M., 1987. A comparative study of Buddhism and Hinduism, Journal of Indian Civilization, volume 6. No.2- (Summer), 15-39, Sri Lanka.
3. Kane, P.V., 1994. Dialogues of the Buddha, Journal of Religious Researches, volume 2, No.1 (Spring), 23-35, India.
4. Rhys Davids, T.W., 1936. Ascetics of prehistoric Indian and Indus Civilization, Journal of Indology, volume 14, No.1 (Winter), 15-48, London.
(Trích từ The Indian International Journal of Buddhist Studies, No.4, 2004, Varanasi; Aditya Shyam Trust, 2003, tr.3-7).

CHENG JIANHUA
GIỚI HƯƠNG
chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8799)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
(Xem: 9306)
Học Phật Nên Biết - Tác Giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm, Pháp Sư Ấn Thuận, Pháp Sư Kim Minh và Phương Khắc Minh; Dịch Việt: Thích Nguyên Thành
(Xem: 11457)
Kinh PHÁP CÚ là một bộ Kinh rất xưa, được xem là kinh Lời Vàng cho những ai có chí nguyện tu tâm, dưỡng tánh để tiến thân trên lộ trình hành đạo giải thoát... Thích Nữ Nguyệt Chiếu
(Xem: 7558)
Lâu nay nói đến các trường Phật họcNam Bộ, người ta thường nghĩ đến Phật học đường Nam Việt, Sài Gòn... Thích Minh Cảnh
(Xem: 12280)
Tự học tiếng Tây Tạng - Tạng Ngữ Hiện Đại - Losang Thonden, Việt dịch: Konchog Kunzang Tobgyal
(Xem: 143624)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 6960)
Với tinh thần đó, trong khi chuyển ngữ ra tiếng Việt thời nay, việc gỡ bỏ ba chữ đó là hoàn toàn hợp lẽ... Hoằng Quảng
(Xem: 11881)
Nội dung tu học Phật pháp nước ta đại bộ phận đều phát xuất từ các kinh điển Hán dịch... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 8621)
Thế giới này là một chuỗi dài nhân duyên nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 19948)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 9282)
Một bản ngã khi muốn có được cái gì từ người khác thường thích đóng vai một nhân vật nào đó để làm cho nhu cầu của nó được đáp ứng... Eckhart Tolle
(Xem: 10827)
Sắc Tức Là Không, Không Tức Là Sắc - Nguyên tác: Cư sĩ Lý Nhất Quang, HT Thích Thắng Hoan dịch Việt ngữ
(Xem: 13574)
Biểu tượng quốc gia của các nước như Thái Lan, Indonesia, và thủ đô Ulan Bator (Mông Cổ) là hình tượng chim thần Garuda... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 11441)
La Sát là từ được phiên âm của Rakshasa/ Raksha (Sanskrit) là một sinh vật thần thoạihình dáng, tính cách của loài người hoặc quỷ thần bất thiện trong Hindu giáo và Phật giáo... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 9359)
Ở xứ ta, sinh vật thần thoại Khẩn Na La, trong kinh văn Phật giáo là một trong “bát bộ chúng”. Trong mỹ thuật cổ, sinh vật thần thoại Kinnara này được giới nghiên cứu gọi là “Tiên nữ đầu người mình chim”... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 14466)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 7271)
Lâu nay mỗi chúng ta theo đạo Phật nhưng có nhiều điểm nghi ngờ, thấy đạo Phật hình như tiêu cực, đa số chùa chiền đều ở trên núi, cách xa thành thị... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 32486)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13136)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 20993)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 39131)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 7130)
Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path” by Khenchen Konchog Gyaltshen, edited by Khenmo Trinlay Chödrön, Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
(Xem: 8964)
Một cơn đau đớn cực độ cũng có thể đưa đến một thể dạng giác ngộ nào đó giúp mình mở rộng tâm thức và con tim hướng vào kẻ khác.
(Xem: 6751)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18/9/2013 đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni ... Hoang Phong
(Xem: 9753)
Bất nhị là không phải hai hay nhiều, cũng không phải một, mà là vô lượng hay không có số lượng. Số lượng là số đếm chỉ có trong thế giới tương đối, nhị nguyên... Truyền Bình
(Xem: 9460)
Thầy Tuệ Sỹ viết: “Bởi vì con cá dưới lòng sông không làm sao hiểu nổi chuyện kể đầy tính hoang đường của con rùa sau những chuyến du hành trên đất liền..." Đặng Công Hanh
(Xem: 8037)
Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới... Nhụy Nguyên
(Xem: 11763)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 16151)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 9603)
Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc cao minh tôn túc chỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là không thể nào tránh khỏi được.
(Xem: 12219)
Theo kinh điển, hai truyền thống Nam truyền và Bắc Truyền đều thừa nhận Đức Phật có đầy đủ 32 tướng quý... Thụy Nguyên
(Xem: 8787)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diện cuộc đời sanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật... Đương Đạo
(Xem: 15562)
Giáo Khoa Phật Học (3 Tập) Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ, Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
(Xem: 7988)
Trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu...
(Xem: 17816)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 8647)
Lương Vũ Đế, tự Tiêu Diễn, lên ngôi vào năm 37 tuổi, tại vị 49 năm, thọ 86 tuổi. Là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lương (502-556) trong giai đoạn Nam Bắc triều (420-589) của Trung Hoa.
(Xem: 8289)
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”... Nguyễn Xuân Chiến
(Xem: 10508)
Nguyệt San Phật Giáo Việt Nam - Do Tổng hội Phật Giáo Việt Nam xuất bản năm 1956
(Xem: 15833)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 17507)
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
(Xem: 7907)
Đại chúng bộbộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 12987)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 8022)
Phật dạy 20 điều khó không mang một sắc thái bi quan hay chán chường, mà nhằm chỉ dạy chúng ta phải ý thức rằng sự sống này phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống trên nền tảng của nhân quả... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 8584)
Đạo Phậtcon đường dẫn đến an vui giải thoát. Đức Phật là bậc đạo sư, là người dẫn đường chứ không phải là vị thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai... Hoàng Nguyên
(Xem: 9749)
Tam Nguyệt San Hải Triều Âm - Cơ quan phát khởi nền quốc học, Phật học, và Văn hóa Việt Nam do Tổng Vụ Văn Hóa GHPGVNTN chủ trương từ 1973 đến 1975
(Xem: 10332)
Mục đích duy nhấtcuối cùng của con đường học Phật, tu Phật chính là thoát khỏi sinh tử. Trên đường đi tới điểm đích ấy, nền tảng chủ yếu hướng dẫn người tu Phật xuất gia lẫn tại gia không bị lạc lối được xem là sự nghiệp trí tuệ... Đoàn Ánh Loan
(Xem: 23243)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19344)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 10037)
Tuần San Đuốc Tuệ 1965 - Cơ Quan Phát huy tinh thần Phật Giáo, Khai triển văn hóa dân tộc - Miền Vĩnh Nghiêm trong GHPGVNTN 1965
(Xem: 8236)
Đặc San Hoằng Pháp Dharmaduta - Cơ Quan Truyền Bá Chánh Pháp Của GHPGVNTN 1973
(Xem: 24187)
Từ Điển Pháp Số Tam Tạng - Nguyên tác: Pháp sư Thích Nhất Như, Cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
(Xem: 8837)
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
(Xem: 8442)
Có thể nói rằng quan điểm bình đẳng về khả năng giải thoát tâm linh do Đức Phật đưa ra có một ý nghĩa cách mạng xã hội đáng kể...
(Xem: 7984)
Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát... Quán Như
(Xem: 17753)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 9494)
Hãy hướng tâm vào bên trong và cố gắng tìm niềm vui ở bên trong. Chỉ khi tâm đã được kiềm chế và dẫn dắt đúng hướng thì nó mới có ích cho chủ của nó và xã hội.
(Xem: 8191)
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
(Xem: 24350)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 24689)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 8399)
Triết học Trung quán kêu gọi sự chú ý của chúng ta, như một hệ thống đã tạo nên cuộc cách mạng trong đạo Phật và qua đó, toàn lĩnh vực triết học Ấn Độ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant