Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật giáo có mối liên hệ với Bà La Môn giáoẤn Độ giáo hay không?

14 Tháng Mười 201000:00(Xem: 14790)
Phật giáo có mối liên hệ với Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo hay không?

Vào tháng 12-1999, nhiều nhà nghiên cứu về Ấn Độ giáo từ các miền khác nhau trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Đô, Bỉ và Hoa Kỳ... gặp nhau tại New Delhi để thảo luận về vấn đề Phật giáoliên quan đến Bà La Môn giáoẤn Độ giáo hay không? Các học giả đưa ra giả thiết rằng Phật giáo là một xu hướng chống lại nghi thức tôn giáo Vệ đà hoặc một tôn giáo độc lậptruyền thống riêng biệt.

Vấn đề càng phức tạp hơn cho những người Ấn có tín ngưỡng mạnh mẽ, hoặc một số những người khác thiên về lý thuyếtlịch sử, hoặc một số những người khác cho là đã có sự giải thích sai trong sự nghiên cứu tiền sử. Thực tế, cách tiếp cận khác nhau của những nhà nghiên cứu đó cho thấy tính nghiêm túc, phức tạpý nghĩa của vấn đề này.

Hơn bốn thập niên qua, sự khác nhau trong những cách tiếp cận này đã gây ra nhiều vấn đề trong việc nghiên cứu tôn giáo. Và kết quả là nhiều tác phẩm văn học trong các ngôn ngữ khác nhau như Anh, Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật, Pháp và Đức... đã được xuất bản liên quan với chủ đề này. Trong lời giới thiệu cuốn sách 2500 năm của đạo Phật (2500 Years of Buddhism, New Delhi, 1956), một trong những học giả Ấn Độ nổi tiếng, ông S. Radhakrishnan đã mô tả Phật giáo như "một nhánh của tín ngưỡng cổ xưa hơn đạo Hindu, có lẽ là một dị giáo". Từ khi Bà La Môn giáo thống trị lĩnh vực học thuật của Ấn Độ khoảng một thiên niên kỷ, chắc chắn là những học giả Ấn Độ, tương tự như S. Radhakrishnan đã cố gắng tóm kết lịch sử Phật giáo Ấn Độmở rộng từ quan điểm riêng này.

Xung đột giữa Phật giáoBà La Môn giáo, sự biến đổi di sản Phật giáo tại Ấn Độ và sự biến mất Phật giáo (tôn giáo đã từng là niềm tin sống động từ đất Ấn suốt trong nhiều thế kỷ thời đầu trung cổ) là những nguyên nhân để các nhà nghiên cứu tìm hiểu về nền văn minh Ấn Độ cổ xưa và sự truyền bá quan điểm Bà La Môn giáo suốt thời kỳ trung cổ cho đến ngày nay. Tuy vậy, Phật giáo cần phải được nghiên cứu từ quan điểm Phật giáo. Những quan hệ của nó với Bà La Môn giáoẤn Độ giáo cần phải được quan sát từ quan điểm lịch sử cụ thê bằng phương pháp khoa học.

Bài viết này tập trung vào mối bất đồng của chúng tôi về những lý thuyết hiện thời về nguồn gốc Phật giáo có mối liên hệ với Bà La Môn giáoẤn Độ giáo.

dieumuanguoian
Một điệu múa của người Ấn

1. Nguồn gốc Phật giáo

Dường như ở Ấn Độ có một khuynh hướng mô tả Phật giáo như là một giáo phái của Ấn Độ giáo, xem Phật Thích Ca là một vị Hindu, và tô màu Ấn Độ giáo giống như công giáo để chống Vệ đàtà thuyết như Đức Phật Thích Ca. Lý thuyết lợi hại này đã được truyền bá kỹ lưỡng và cẩn thận tại Ấn Độ khiến những học giả và sử gia phải mất nhiều thời gian để loại trừ những ảo tưởng này và vạch rõ phương cách cho việc nghiên cứu Phật giáo nghiêm túc từ quan điểm lịch sử bằng phương pháp khoa học. Khuynh hướng này tại Ấn Độ đã cho thấy sự hiểu biết rộng rãi của đa số quần chúng quan tâm tới Phật giáo và chủ yếu cho thấy thái độ chung của người Ấn khi nhìn Phật giáo bằng những cách giải thích của họ.

Nói chung, hiện nay phần lớn trong cuộc sống người Ấn có một lòng tin mạnh mẽ đối với Ấn Độ giáo hơn là với Phật giáo, mặc dù Phật giáoảnh hưởng sâu xa hơn Ấn Độ giáo cả về học thuyết lẫn thực nghiệm.

Thông thường dễ thấy rằng Ấn Độ giáo (thật ra là một tôn giáo mới xuất hiệnẤn Độ), đã chuyển đổi hầu hết dân Ấn Độ thành tín đồ của mình, giữ độc quyền không những về tâm linh, mà còn cả về các lĩnh vực đời sống, tư tưởng chính trị, kinh tế và khoa học. Tuy nhiên, xu hướng này – theo cách tư duy chính thống – đã tách người Ấn Độ ra khỏi cộng đồng thế giới, khi nhân loại đã bước vào thế kỷ thứ XXI.

Thái độ đối với Phật giáo của những người Hindu nói chung cho rằng Phật giáo là một phần của Ấn Độ giáo, Phật giáo hòa trộn vào trong Ấn Độ giáo, Đức Phật Thích Ca là một nhà đại cách tân Hindu và đồng thời là một vị thần Hindu vĩ đai.

Sự việc này khiến chúng ta phải khảo sát cẩn thận và đưa ra cách suy nghĩ khác rằng, Phật giáo là một tôn giáo độc lập và riêng biệt, không thể nghiên cứu vượt ra ngoài nhận thức lịch sử và khoa học. Người ta có thể nhận thấy rằng, hiện tại người Ấn Độcảm giác tự hào về tôn giáo đáng kính yêu, về nền văn hóa Vệ đà và những học thuyết thần thánh của họ mỗi khi chúng ta tình cờ gặp họ hoặc thảo luận với họ.

Quan điểm của nhiều học giả đều cho rằng có một số học giả tâm huyết với Vệ đàBà La Môn giáo (những sử gia Ấn Độ hiện đại, những người lãnh đạo và những nhà tư tưởng quốc gia) đều mô tả Phật giáo như một phần của tín ngưỡng cổ xưa hơn Hindu và có lẽ là một phân giáo, lúc đó được xem như tà giáo.

Một số học giả Hindu – chuyên chú về Phật học hoặc nghiên cứu vài vấn đề nào đó của Phật giáo hoặc vài tác phẩm về Phật giáokết luận rằng Phật giáo đã chịu ảnh hưởng sâu xa từ tư tưởng Vệ đà ngay từ nguồn gốc của nó và là một dị giáo của Bà La Môn giáo. Theo khảo cổ, ít ra, chúng ta không thể coi Phật giáo đơn thuần như một “tà giáo” đối chọi lại tính chính thống Ba La Môn đang phổ biến, mà ngược lại, Phật giáo cần nên được xem xét như một phương pháp thực nghiệm độc lập mang tính lịch sử – một phương pháp sống – và tạm gọi là một tôn giáo cổ xưa hơn Hindu.

Như được trình bày ở trên, lý thuyết hiện thời về nguồn gốc Phật giáo đã cho chúng ta biết rằng quan điểm của Vệ đàBà La Môn đã gây ảnh hưởng và giữ độc quyền không những về lĩnh vực hệ tư tưởng Ấn Độ, mà còn cả lĩnh vực nghiên cứu xã hộilịch sử về Phật giáo đối với Bà La Môn giáo. Lịch sử nguồn gốc của Phật giáo, nói gọn trong một câu, đó là chuyện ngoài đường phố của những trẻ Hindu mới lớn không quan tâm đến kiến thức lịch sử và khảo cổ tôn giáo Ấn Độ cổ xưa. Để phơi bày và làm minh bạch những đặc tính thật của Phật giáo, chúng ta có thể đặt vấn đề đúng đắn để xem Phật giáo có quan hệ như thế nào với tín ngưỡng Bà La Môn giáo chính thống cổ đại vào thời kỳ ban đầu.

2. Quan hệ Phật giáo với Bà La Môn giáo


Chúng tôi sẽ đề cập đến quan điểm của một trong những học giả Ấn nổi tiếng, ông S. Radhakrishnan, quan điểm của ông có thể được xem như một quan điểm đang phổ biến tại Ấn Độ về mối quan hệ giữa Phật giáoBà La Môn giáo. Các điểm nổi bật trong quan điểm của Radhakrishnan có thể được tóm tắt như sau: Đức Phật đã không cảm thấy rằng Ngài đang công bố một tôn giáo mới; Ngài sinh ra, lớn lên và từ trần như một Hindu; Ngài đã tuyên bố với sự nhấn mạnh mới về những lý tưởng cổ xưa của nền văn minh Indo – Aryan. Xu hướng ý thức hệ của nhà học giả Ấn Độ này về Phật giáo chủ yếu đề cập tới những diễn dịch mang tính truyền thống (Traditional Interpretation), duy vật (Materialistic Interpretation) và trào lưu chính thống (Fundamentalist Interpretation) của Phật giáo liên quan với Bà La Môn giáo chính thống.
Sự giải thích về truyền thống có nghĩa rằng Phật giáo vượt ra ngoài xu hướng chống đối nghi thức tôn giáo của các Brahmanas như những học giả Bà la môn đã nói. Thực tếlịch sử Ấn Độ cổ đại ghi nhận rằng có hai hệ tư tưởng đối lập đó là: thế giới – khẳng định đại diện bởi các đạo sư Brahmanas theo truyền thống Vệ đà (Bà La Môn giáo) và thế giớisiêu việt (thế giới – phủ định) đại diện bởi các bậc ẩn sĩ khổ hạnh Sa môn thuộc truyền thống phi Vệ đà (Phật giáo).

Về lịch sử, rõ ràng cả Phật giáo lẫn Bà La Môn giáođại diện cho hai truyền thống riêng biệt: truyền thống Vệ đàtruyền thống Sa môn. Thế nên, thật không thích hợp để thiết lập lý thuyết nguồn gốc Phật giáo từ Vệ đà được.

Sự giải thích theo duy vật của một vài học giả, dưới ảnh hưởng biện chứng theo duy vật lịch sử do Karl Marx đề xướng, nhằm tương quan với tư duy khổ hạnh và kiến tri – từ thời Đức Phật (624-544 trước Tây lịch) cho tới sự trỗi lên của chủ nghĩa tư bản và kinh tế thương mại tầng lớp trung lưu. Tuy nhiên, cách nhìn này hoàn toànsuy đoánviển vông, vì không có bằng chứng rõ ràng để chứng minh sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản trong cảm quan của người theo học thuyết Marx mà cũng không có chứng cớ tổ chức giai cấp trung lưu kiểm soát trọn vẹn kinh tế – tiền tệ xã hội ở thế kỷ thứ VII và thứ VI trước Tây lịch. Hơn nữa, thực không thể nào cho rằng những lý tưởng tinh thần của Bồ tát (Bodhisattva: sẽ trở thành Phật) được xác định bởi ý thức xã hội theo hệ quả của tiến trình vật chất; thực ra lối giải thích theo duy vật máy móc này chỉ là một bằng chứng bộc lộ sự thô thiển trong nghiên cứu của họ.

Còn giải thích theo trào lưu chính thống có nghĩa rằng đối với số ít người theo đạo Hindu thì Đức Phật là người phá vỡ tín ngưỡng sùng bái thần tượng Bà la môn, vì những yếu tố cơ bản nhất của Bà La Môn giáo thời kỳ tiền Phật giáo: tế lễ – hy sinhhọc thuyết bốn giai cấp, những điều bị Đức Phật chỉ trích. Mặc dù Đức Phật thuyết pháp, kêu gọi lòng từ bi đối với muôn loài, phải giới hạnh thanh tịnh, phải tuệ tri rõ ràng về sự tồn tại hoặc không tồn tại của một tự ngã thường hằng... nhưng cuối cùng toàn bộ lâu đài Phật giáo cũng bị suy tàn và sụp đổ. Lời phê bình và lên án Phật giáo không chỉ đơn thuần liên quan tới triết họclịch sử của Phât giáo mà chính là khuynh hướng trào lưu chính thống đối với các tôn giáo khác. Như chúng ta đã thấy ở trên, Phật giáo được xem là có liên quan với Bà La Môn giáo như chủ trương của vài học giả Ấn Độ đại diện quan điểm truyền thống hiện đang nắm giữ độc quyền trong giới trí thức Ấn Độ. Đề tài này thường được đem ra thảo luận giữa các tôn giáo khác nhau, hoặc trong khuynh hướng ý thức hệ xã hội Ấn Độ và trong giới nghiên cứu của hàn lâm viên tôn giáo. Vài học giả Ấn Độ hiện đại, với niềm tin mạnh mẽ vào Vệ đàBà La Môn đã thử làm một sự đồng hóa học thuyết của Phật giáo với Bà La Môn giáo. Điều nhấn mạnh ở đây, họ muốn chỉ ra rằng Phật giáo, do bị ảnh hưởng sâu xa bởi tư tưởng Vệ đà, đã vượt ra khỏi xu hướng chống đối nghi thức của Brahmanas; nói cách khác, nó là một tà giáo hoặc một người theo dị giáo của Bà La Môn giáo.

3. Quan hệ Phật giáo với Ấn Độ giáo


Cả trong quan điểm của người Ấn bình thường lẫn người Ấn học thức uyên bác, Phật giáoẤn Độ giáo được xem như là một, vì có vài sự giống nhau về lý thuyếtthực hành của cả hai, thực ra Phật giáoẤn Độ giáo là hai hệ thống hay hai truyền thống tôn giáo tuyệt đối khác nhau.

P.V. Kane, một nhà Ấn Độ học nổi tiếng, đã sai lầm khi cho rằng: “Đức Phật là một nhà cải cách lớn đạo Hindu. Ngài đã không cảm thấy, hoặc tuyên bố là Ngài đang thành lập một tôn giáo mới mà cũng không tuyên bố từ bỏ đạo Hindu”. Tuy nhiên, khi chúng tôi nói về mối liên quan giữa Phật giáo với Ấn Độ giáo, thật là hữu ích nếu chúng ta khảo sát cẩn thận thuật ngữ “Hindu” từ góc độ lịch sử, ngôn ngữ và khảo cổ.

Quan hệ Phật giáo với Ấn Độ giáo cần phải xem xét từ quan điểm lịch sử và góc độ khoa học. Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại, cho rằng chính Đức Phật tuyên bố đã dạy con đường của bậc thánh Hindu cổ xưa và cho thấy rằng Đức Phật không cảm thấy Ngài đang công bố một tôn giáo mới. Từ “Hindu” không xuất hiện trong lời tuyên bố của Đức Phật; và Ngài cũng không đề cập tới những thánh nhân Vệ đà hoặc những nhà tiên tri Indo-Aryan hoặc Brahmanas là những đạo sư hướng dẫn Ngài tu tập.

Về phương diện ngôn ngữ, thuật ngữ “Hindu” là từ ngoại lai có nguồn gốc từ tiếng Ba Tư và Ả-rập, và tượng trưng cho những hình thức tôn giáo Bà La MônẤn Độ thời trung cổ. Từ Hinduism bắt đầu sử dụng trong các truyền thống tôn giáo Ấn Độ, thông thường với quan niệm để phân biệt với đạo Cơ Đốc và Hồi giáo tại Ấn Độ. Chúng ta không thể sử dụng từ Hinduism vào thời kỳ tiền Puran Bà La Môn giáo của Vệ đà và Upanisad, mặc dù đạo Hindu thời trung cổ đã lập nền tảng rồi mở rộng tới phạm vi nào đó trong tôn giáo Vệ đà, giống như đạo Do Thái trước sự giáng sinh của Jesus Christ không thể được gọi chính xác đạo Thiên Chúa mặc dù đạo Thiên Chúa được thành lập trước đạo Do Thái.

Về mặt khảo cổ học, không thấy sự xuất hiện từ “Hindu” trong bất kỳ nguồn tài liệu khảo cổ hoặc văn học Ấn Độ cổ đại, và chưa từng được khám phá từ thời Alberuni (khoảng 1030 Tây lịch). Có lẽ, đầu tiên ông ta đề cập tới người Ấn Độ phi Hồi giáo là “Hindus” có nghĩa là “Những người không theo đạo”. Thuật ngữ “Hindu”, một dạng của “Sindhu”, trước hết do người Ba Tư sử dụng, xuất hiện cùng với từ “Gadara”, một hình thức của “Gandhara” xuất hiên trong bia ký của vua Darius xứ Iran; và ở đây được dùng theo ý nghĩa địa lý là biểu thị cho dân tộc hoặc một đất nước sống dọc theo sông Sindhu. Trong Ba Tư cổ đại, “Sa” được phát âm như “Ha”; “Sindhu” được gọi “Hindu” từ đó tiếng Hy Lạp biến nó thành “Sintos” hoặc “Indos”, xuất phát từ tiếng Ba Tư và Ả-rập là Hindu và Hindustan; còn tiếng Anh gọi là Indian và India.

Như chúng ta thấy ở trên, Phật giáoẤn Độ giáo khác nhau hoàn toàn từ quan điểm lịch sử lẫn quan điểm ngôn ngữ và khảo cổ, mặc dù có phần giống nhau giữa Phật giáo sau này và một số giáo lý của Ấn Độ giáo. Có một bằng chứng mạnh mẽ về ảnh hưởng của Phật giáo trong ngôn ngữ cũng như trong nhưng học thuyết của Ấn Độ giáo; bởi vậy, phải thừa nhận rằng chúng ta không thể hình dung Phật giáo là một sự đồng hóa của Ấn Độ giáo (thực sự về sau họ có vay mượn một số thuật ngữgiáo lý quan trọng từ Phật giáo).

Chúng ta có thể kết luận, thật không công bằng khi cho rằng Đức Phật như một “Hindu”, hoặc một nhà cải cách lớn của Hindu giáo, vì không có Ấn Độ giáo vào thời của Ngài.

Từ thảo luận ở trên, chúng ta có thể kết luận rằng những lý thuyết hiện thời về nguồn gốc của Phật giáo và những mối quan hệ của nó với Bà La Môn giáoẤn Độ giáo đã được chi tiết hóa bởi những học giả Ấn Độ hiện đạiquan điểm Vệ đàBà La Môn, hoàn toàn chỉ là suy đoán. Hơn nữa, chính do hiểu rõ về mặt lịch sử, Phật giáo – một trào lưu chính thống nhất của phong trào chống lại Vệ đàBà la môn (truyền thống Sa môn) – đã xuất hiện như một tôn giáo riêng biệt và độc lập tại Ấn Độ vào thế kỷ VI trước Tây lịch không thể được xem là bị ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng Vệ đà. Ngược lại, cả Bà La Môn giáo lẫn Ấn Độ giáo, học thuyết về bốn giai cấp và sự hy sinh tế lễ đã bị Đức Phật chỉ trích, mặc dù hiện nay chúng vẫn còn hiện hữu trong những cộng đồng của đạo Hindu.

Chúng ta không thể nghiên cứu tôn giáo từ lập trường ý thức hệ riêng biệt này hoặc kia đơn thuần chỉ vì lòng tin của chúng ta hoặc đơn thuần bởi vì tình cảm đặc biệt của chúng ta đối với tôn giáo đó. Nếu vậy, cách nhìn của chúng ta sẽ bị phiến diệnchúng ta đang làm một công việc quan trọng về nghiên cứu so sánh các tôn giáo.

Thật sai lầm khi ủng hộ quan điểm Hindu hiện đại cho rằng chính Đức Phật tuyên bố đã đưa ra con đường của thánh nhân “Hindu” cổ xưa và để cho thấy rằng Đức Phật không xác định Ngài đang công bố một tôn giáo mới.

Hơn nữa, không có sự tương ứng hoặc thỏa thuận quan điểm cơ bản giữa Bà La Môn giáoPhật giáo thời kỳ ban đầu; hai truyền thống tôn giáo này có những nền tảng khác nhau trong kỷ nguyên Vệ đà tiền sử và trong thời Đức Phật tại thế.

Như chúng ta vừa đề cập ở trên về mặt ngôn ngữ và khảo cổ, từ “Hindu” có liên quan với tiếng Ba Tư và Ả-rập thời Ấn Độ trung cổ. Bởi vậy, chúng ta không có lý do chính đáng để dùng từ “Hindu” và “Hinduism” trong bối cảnh lịch sử vào thời của Đức Phật Thích Ca; còn mệnh đề đạo “Hindu” liên quan đến Ấn Độ thời tiền Hồi giáo thì cũng vô nghĩasai lạc. Đức Phật không phải là một nhà Hindu, cũng không là một nhà cải cách lớn của Ấn Độ giáo, vì không có đạo “Hindu” vào thời Ngài, mà chỉ duy nhấtBà La Môn giáo nguyên thủyVệ đà. Rõ ràng lời dạy của Đức Phật đã cải cách nhiều phương pháp tu tập không hoàn hảo của Vệ đà, nhưng Ngài đã không tuyên bố là một nhà cải cách. Và không có kinh điển Hindu cũng như của Bà La Môn nào nói đến Ngài như một nhà cải cách.
 


Sách tham khảo
1. Kalupahana, D.J., 1992, A History of Buddhist Philosophy, the University of Hawaii Press.
2. Joshi, L.M., 1987. A comparative study of Buddhism and Hinduism, Journal of Indian Civilization, volume 6. No.2- (Summer), 15-39, Sri Lanka.
3. Kane, P.V., 1994. Dialogues of the Buddha, Journal of Religious Researches, volume 2, No.1 (Spring), 23-35, India.
4. Rhys Davids, T.W., 1936. Ascetics of prehistoric Indian and Indus Civilization, Journal of Indology, volume 14, No.1 (Winter), 15-48, London.
(Trích từ The Indian International Journal of Buddhist Studies, No.4, 2004, Varanasi; Aditya Shyam Trust, 2003, tr.3-7).

CHENG JIANHUA
GIỚI HƯƠNG
chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 337)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 621)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 678)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 637)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 541)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 685)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 667)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 709)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 768)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 791)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 768)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 960)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 827)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1386)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 913)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1076)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1060)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 991)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1121)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1398)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1158)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 966)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 817)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 946)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 971)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1394)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1140)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1171)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1397)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1385)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 979)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1373)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1251)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant