Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bụt hay Phật?

09 Tháng Tư 201200:00(Xem: 14834)
Bụt hay Phật?
BỤT HAY PHẬT? 
Nguyễn Trọng Phu

buthayphat-nguyentrongphuI. Lý do đặt vấn đề 

Trong khoảng mươi mười lăm năm nay, trong một số các đạo tràng Phật giáo, một số các chùa, nhóm tu học, cũng như một số sách báo Phật giáo, đã xuất hiện một danh từ mới, đó là danh từ Bụt, để tôn xưng bậc Giác ngộ, mà trước đây, người ta vẫn thường gọi là Ðức Phật. Và nói rộng ra, Ðạo Phật cũng được gọi là Ðạo Bụt. Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm, như sau đây sẽ được chứng minh cụ thể hơn, nhưng vì việc sử dụng ấy đã gần như bị đứt đoạn, ít nhất là trên văn chương sách vở, trong một thời gian, nên nay đem ra sử dụng lại, có thể gây nên một số hiểu lầm, nhất là đối với những đồng bào lớn tuổi vốn rất quen thân với danh từ Phật. Những vị này thường cho rằng danh từ Bụt là để chỉ cho các vị Tiên Thần, như trong các truyện cổ tích dân gian, và có tính cách nôm na bình dân, chứ không được hàm súc thiêng liêng như danh từ Phật. Việc hiểu lầm này đã xảy ra khá sâu rộng, chẳng những trong giới bình dân, mà ngay cả trong giới trí thức làm công tác văn học giáo dục nữa. Như một vị cựu Chủ Tịch Văn Bút VN Hải Ngoại đã viết: “Ông... đưa đạo Bụt, chữ của Ông, vào cuộc đời” (Khởi hành 10/97). Tại quốc nội, một vị giáo sư đã viết “thật rung động trong lòng, thì ra Ông Bụt mà chúng ta có dịp làm quen từ các chuyện cổ tích..., cái hình ảnh quen thuộc ấy, hóa ra lại là Ðức Phật (Hương Sen 9/96). 

Dĩ nhiên, việc thay đổi một tập quán, kể cả tập quán về ngôn ngữ, đòi hỏi cần có một thời gian khá lâu, có thể đôi ba mươi năm, mới có thể thực hiện trọn vẹn được. Nhưng nếu có được một số đông người hiểu biếtlý do vì sao nên thay đổi như vậy, thì tiến trình thay đổi nhất định sẽ được thuận lợi nhanh chóng hơn nhiều, và ít nhất cũng sẽ tránh bớt được một số sở tri chướng mà bất kỳ một sự thay đổi lớn nào cũng có thể gây nên. 

II. Ðịnh nghĩa danh từ Bụt 

Trước hết, chúng ta cần tra cứu các từ điển, xem danh từ Bụt nói gì. 

1. Việt Nam Từ Ðiển của Hội Khai Trí Tiến Ðức, xuất bản lần đầu tại Hà Nội năm 1931. 
Bụt: Tiếng gọi Ông Phật. 
Văn liệu: Lành như Bụt (tục ngữ). Ðất Vua, chùa làng, phong cảnh Bụt (thơ cổ). Bẻ tay Bụt ngày rằm (T.ng.). Bụt trên tòa sao gà mổ mắt (T.ng.). Gần chùa gọi Bụt bằng anh (T.ng.). Bụt không thèm ăn mày ma (T.ng.). Bụt chùa nhà không thiêng (T.ng.). Bụt nhà không cầu, đi cầu Thích Ca ngoài đường (T.ng.). 
Sư rằng cửa Bụt thênh thênh (Nhị độ mai) 
Chỉ mong cầu khẩn Bụt Trời (Nhị độ mai) 

2) Từ Ðiển Việt Nam, Khai Trí Sài Gòn, 1971 
Bụt: Ông Phật 
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưỡng (Nguyn Công Trứ) 

3. Từ Ðiển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1988 
Bụt: Phật, theo cách gọi dân gian 
Lành như Bụt. Bụt chùa nhà không thiêng (T.ng.) 

4. Việt Anh Tự Ðiển, Nguyn Văn Khôn, Sài Gòn, 1972 
Bụt: Buddha. 

Trên đây, ta đã thử tra một số từ điển xuất bản trong thế kỷ XX này, từ 1931 đến 1988. Bây giờ ta hãy tra một quyển từ điển cổ, xuất bản năm 1651 tại La Mã, xem người Việt hồi thế kỷ XVI đã có sử dụng danh từ Bụt để gọi Phật hay chưa. Ðó là quyển Dictionarium Annamitticum, Insitanum et Latinum (Tự điển Việt - Bồ Ðào Nha - Latinh) của Alexandre De Rhodes, hiện còn lưu trữ tại La Mã. Theo từ điển này, thì hai danh từ Bụt và Phật đều đã được dùng để gọi Buddhã. Ngoài ra, còn có một tài liệu viết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên (1659) của Bento Thiện thuộc Dòng Tên, đã nói về lịch sử và phong tục tập quán của nước Annam, sẽ được nói rõ hơn trong mục III sau này. 

III. Việc sử dụng danh từ Bụt qua thời gian 

1) Trong ngôn ngữ hằng ngày 
Người dân quê Việt Nam, từ xa xưa, vẫn thường gọi Buddhã là ông Bụt, đến nay vẫn còn in rõ dấu tích. Tại vùng Chương Mỹ, Hà Tây, Bắc bộ, có một ngôi chùa cổ, tên chữ là Hỏa Tinh, cách Hà Nội 40km trên đường số 6 đi Hòa Bình. Cách lộ độ một km, trên một ngọn đồi trọc, có một pho tượng Ông Bụt bằng đá. Khách từ xa đến thăm viếng, nếu hỏi thăm chùa Hỏa Tinh, nhiều người không biết. Nhưng nếu hỏi thăm chùa Ông Bụt, thì từ cụ gà đến trẻ em, ai nấy cũng đều chỉ đúng chùa Hỏa Tinh này. 

2) Trong ca dao tục ngữ 
Như đã trình bày tại mục I, trong kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam, có rất nhiều câu dùng danh từ Bụt để chỉ Buddhã. Sau đây, xin ghi thêm vài câu tiêu biểu, ngoài các câu đã liệt kê nơi phần định nghĩa. 
Ðẹp như Tiên, hiền như Bụt 
Ði với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy. 
Các ca dao tục ngữ này, phần nhiều đều xuất phát từ miền Bắc và miền Trung Việt Nam, vì một lẽ rất d hiểu là cái nôi văn hóa Việt Nam là đồng bằng Bắc bộ, là thành Luy Lâu và Thăng Long xưa cũ. Cho nên, đối với người dân Bắc bộ, ngay cả đối với thế hệ trẻ lớn lên sau này, không có một chút phân vân nào về danh từ Bụt là Phật. Và cả hai danh từ Bụt và Phật đều có giá trị văn hóatâm linh như nhau. 

3) Trong sách vở và kinh sách 
Ðây mới chính là phần quan trọng nhất trong bài này, vì nó sẽ chứng tỏ cho ta thấy, qua bao nhiêu thế kỷ, ông cha chúng ta vẫn luôn luôn dùng danh từ Bụt trong văn chương bằng chữ nôm, tức là văn chương quốc âm, song song với việc dùng danh từ Phật trong các sách vở viết bằng chữ Hán, là thứ chữ chính thức dùng trong triều đình và các công việc hành chánh. Có một điều đáng tiếc là trong thời gian cận đại, việc sử dụng danh từ Bụt trong văn chương gần như bị đứt đoạn, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, và có lẽ cũng nên có một bài khảo cứu riêng về vấn đề này. Chính vì sự đứt đoạn đó, mà khi được sử dụng trở lại, một số ít người có phần ngỡ ngàng, cho đó là một danh từ mới, hay một danh từ cũ với nghĩa khác, nhưng được cưỡng dụng theo nghĩa Phật. 

Nhưng trước khi qua phần dẫn chứng, một câu hỏi ngắn cần nên được giải đáp, là làm sao ta có thể biết được, từ xa xưa, ông cha chúng ta đã gọi Buddha là Ông Bụt, trong khi, lúc bấy giờ, chưa có máy ghi âm hay chữ quốc ngữ như hiện nay. Câu trả lời thật đơn giản là. Ðó là: 

a) Do các từ cổ xưa còn sót lại trong ngôn ngữ dân gian, trong các ca dao tục ngữ, như đã được đề cập đến trong giai đoạn 1 và 2 của phần III này. 

b) Do chữ viết riêng của nước ta là chữ NÔM. Ðó là một thứ chữ hình thành từ chữ Hán, giống như trường hợp các nước Á Châu khác, như chữ Hòa văn của Nhật, chữ Triều Tiên v.v... Mới nhìn, ta có thể lầm đó là chữ Hán, vì nó được viết gần giống như chữ Hán, mà không phải là chữ Hán, vì chính người Hoa cũng không thể đọc và hiểu được. Một thí dụ đơn giản: hai chữ Hán bách niên.... .... có nghĩa là trăm năm, thì chữ Nôm viết là.... .... , và chỉ có người Việt mới đọc và hiểu được mà thôi, vì trong chữ Hán, không hề có hai chữ.... .... này. Chứng tích việc sử dụng chữ Nôm để viết thơ văn bắt đầu từ Hàn Thuyên, cuối thế kỷ thứ XIII, dưới thời Nhà Trần, nhưng trước đó khá lâu, đã có nhiều tài liệu viết bằng Hán văn mà ghi tên người Việt bình dân bằng chữ Nôm, như trường hợp các văn bia ở Chùa Miếu, và nhất là tên BỐ CÁI ÐẠI VƯƠNG.... .... .... .... mà nhân dân ta tôn xưng PHÙNG HƯNG khi ngài đánh đuổi quân đô hộ Tàu vào năm 791. Trong danh xưng này, chữ Ðại Vương là chữ Hán, còn Bố Cái cũng là chữ Hán, nhưng được mượn để viết ra âm Việt thuần túy, Bố là cha, Cái là mẹ. Nếu dùng chữ Hán, phải gọi là phụ mẫu. Như vậy, từ 1200 năm về trước, tổ tiên ta đã biết sử dụng danh từ Bụt để chỉ Buddhã. 

c) Do tìm thấy chữ Bụt trong các văn bản quốc ngữ cổ. Nhiều người cứ nghĩ rằng chữ quốc ngữ mới được sáng chế gần đây, và được phát triển mạnh vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, và như vậy, chỉ có thể tìm thấy chứng liệu cho các sự kiện xẩy ra trong thời kỳ này. Nhưng các cuộc nghiên cứu về sự hình thành chữ quốc ngữ đã phát hiện được một số tài liệu viết bằng chữ quốc ngữ cổ vào khoảng 1622-1659, tức là trước đây khoảng 350 năm, nay vẫn còn được lưu trữ tại một số thư viện Tây phương, và trong đó, danh từ Bụt được sử dụng một cách rất rõ ràng, chính xác
Bây giờ, ta có thể đưa ra một số chứng liệu tiêu biểu qua từng thế kỷ về việc sử dụng danh từ Bụt. 
Thế kỷ XIII và XIV 
* Trần Nhân Tông (1258-1308) 
... 
Thờ phụng Bụt Trời 
Ðêm ngày hương hóa 
Tụng kinh niệm Bụt 
Chúa Thánh khẩn cầu... 
(Ðắc thú lâm tuyền thành đạo ca - Ðạo Phật Việt Nam, Thích Ðức Nghiệp, Sài Gòn, 1995) 
* Huyền Quang (1258-1308) 
... 
Chỉn ấy Trời Thiêng mở khéo, 
Nhèn chi vua Bụt tu hành 
... 
Nương am vắng, Bụt hiện từ bi, gió hiu hiu, mây nhẹ nhẹ 
Kề song thưa, Thầy ngồi thiền định, trăng vặc vặc, núi xanh xanh 
(Vịnh chùa Hoa Yên - Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Q.II, Nguyn Lang) 
* Mạc Ðỉnh Chi (1284-1361) 
Niệm Bụt ăn chay, Diêm vương mới phục 
Dầu phàm dầu thánh, min được an nhàn 
(Phú dạy con - Ðạo Phật Việt Nam, Thích Ðức Nghiệp) 
Thế Kỷ XV 
* Nguyễn Trãi (1380-1442) 
Thân đà hết lụy thân nên nhẹ 
Bụt ấy là lòng, Bụt há cầu... 
(Mạn thuật) 
... 
Thiêu hương đọc sách quét con am, 
Chẳng Bụt, chẳng Tiên, ắt chẳng phàm... 
(Tự thán) 
Dù Bụt dù Tiên ai kẻ hỏi 
Ông này đã có thú ông này... 
(Quốc âm thi tập) 
[Văn học Việt Nam - Phạm Văn Diêu] 
* Lê Thánh Tôn (1442-1497) 
Hái củi quế tiển trà, khủng khỉnh một bình một bát 
Nằm am mây tắm suối, nghêu ngao nửa Bụt nửa Tiên 
(Thập giới cô hồn quốc ngữ văn - VN Phật giáo Sử luận, Nguyn Lang) 
* Giai thoại: Ba Ông Tam Thế 
Ðời vua Lê Thánh Tôn, có ba ông tiến sĩ đồng khoa là Thế Lịch, Thế Hiển, Thế Vinh. Hôm ban yến tiệc, vua có ứng khẩu một câu rằng: 
Thế Lịch, Thế Hiển, Thế Vinh 
Tam thế đồng khoa, Vinh Hiển Lịch 
Ðến ngày vinh qui bái tổ, Thế Lịch về đến huyện Trực Minh thì có bạn là Phạm Văn Uyển ra đón mừng một bài thơ rằng: 
Ba ông Tam thế trên tòa, 
Khéo rủ nhau vào đỗ một khoa 
Như vậy Bụt no nhờ có oản 
Chẳng thì Bụt đói, Bụt ra ma. 
Thế Lịch tức thì họa lại: 
Có tu Bụt mới hóa trên tòa 
Một tháng hai lần, din giáo khoa 
Bụt vẫn ăn chay, không sợ đói 
Bụt đâu có lẽ hóa ra ma. 
(Văn đàn Bảo giám, Trần Trung Viên, Hà Nội, 1926) 
Thế kỷ XVI 
* Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) 
Làm chi lẽo đẽo hoài cho nhọc 
Cầu Thích Ca nào, để Bụt nhà 
...Cơm áo bỗng xui người hóa quỷ 
Oản xôi
dễ khiến Bụt nên ma 
... 
Chưa dễ ai là Bụt Thích Ca 
Mọi niềm nhân ngã nhẫn thì qua... 
(Nhân tình thế thái - Ðạo Phật V.N. Thích Ðức Nghiệp) 
Thế kỷ XVII 
Trong thế kỷ này, ta chọn hai tài liệu tiêu biểu, một của Thiền sư Chân Nguyên, và tài liệu kia của một thầy giảng Ðạo Thiên Chúa. 
* Chân Nguyên (1646-1726) 
... 
Thuở xưa hội cả Kỳ viên 
Bụt cầm một đóa hoa sen giơ bày 
... 
Niệm Bụt Di Ðà chẳng khuy 
Ngày thì xem tự, đêm thì tụng kinh 
... 
Cho hay Ðức Bụt Thích già 
Hóa thân bách ức, khắp hòa mười phương 
(Thiền Tông Bản Hạnh - Chân Nguyên Thiền sư, Lê Mạnh Thát, Sài Gòn, 1972) 
Ðến đây, có thể có người hỏi, đồng ý rằng Tổ tiên chúng ta đã dùng danh từ Bụt để gọi Buddhã, nhưng đó chỉ là ngôn ngữ thi ca mà thôi, mà ngôn ngữ thi ca khác với ngôn ngữ bình dân rất nhiều. Thế có tài liệu bằng văn xuôi chứng tỏ rằng ông cha chúng ta đã dùng danh từ Bụt trong ngôn ngữ dân gian hằng ngày chăng? Xin đọc tiếp tài liệu của một người Công giáo VN sau đây: 
* Bento Thiện (sinh 1614) 
Bento Thiện là một thầy giảng thuộc Dòng Tên đạo Thiên Chúa, sống gần thời với Alexandre de Rhodes (1593-1660) đã học chữ quốc ngữ đầu tiên với các linh mục Dòng Tên Marini, Gaspar d'Amiral, Ðắc Lộ. Tài liệu sau đây là tài liệu viết tay vào năm 1659 mà Bento Thiện viết, để kèm theo thư gởi cho Marini ở La Mã, và vì cùng một nét chữ với lá thư chính nên được đánh giá như Bento Thiện sáng tác, có tiêu đề “Lịch sử nước Annam” cũng được đặt ra sau này vì nội dung của nó. Qua tài liệu này ta được biết khá rõ về tình hình chính trị cũng như văn hóa xã hội, tập quán của nước Việt thời Trịnh Nguyn phân tranh, và đặc biệt là giữa thế kỷ XVII dân Việt Nam gọi Buddhã là gì? Vì vậy tài liệu chỉ trích đăng những đoạn có nói đến Bụt mà thôi. Tất cả những tài liệu sau đây đều được trích ra từ quyển Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ của Ðỗ Quang Chính, Tủ sách Ðường Mới, Paris, 1985. Trong những đoạn trích đăng, nếu có những chỗ nào khó hiểu vì từ cổ hoặc viết sách cổ, người viết xin được đặt vào dấu ngoặc danh từ thường dùng tương đương. Và các đoạn trích đăng đều dựa theo thứ tự trước sau trong nguyên bản. 
... Lại truyền cho Nhân Tông đời nhà Lý là thứ ba lên trị, đặt có lề luật phép tắt (tắc). Thiên hạ phú quí. Lại làm chùa thờ bụt mà ở chùa. 
... Lại truyền cho Minh Tông là thứ năm, mà chuộng dùng đạo bụt, yêu sãi vãi. 
... Thói nước Annam đầu năm mùng một tháng giêng, gọi là ngày Tết, thiên hạ đi lạy vua, đoạn lạy chúa, mới lạy ông bà ông vải, cha mẹ cùng kẻ cả bề trên. Quan quyền thì lạy Vua Chúa, thứ dân thì lạy Bụt trước. 
(*) “Ðến tháng bãi” (bảy) là Tết mùa thu, ay (ai) có cha mẹ anh em bợ (vợ) con mới chết, thì đến tháng bãi (bảy) phải làm cỗ cho làng ăn, nhà giào (giàu) thì làm chai (chay) đọc Kenh (kinh) mấy (mấy) ngài (ngày) thì mạc (mặc) làu (lòng), mà xin cũ (cùng) bụt địa tạng mục lien (liên) cho linh hồn được siêu sinh phật cuác (quốc) lên thiên đàng.” 
...Ðến mùng một, liền lên nêu mọi nhà cho kẻo quỉ cướp lấy. Rằng nhà ai có nêu là đất Bụt, nhà nào chẳng có nêu, ấy là đất quỉ. Xưa người ta có nói truyền rằng, một bụt một quỉ thì giành đất nhau. Bụt rằng, tao có một áo casa này, tao trải đến đâu thì đất tao đến đấy. Bây giờ Bụt lấy áo mà trải ra, liền hết đất thì quỉ phải ra ở biển. H là đến ngày hết năm thì quỉ lại ăn cướp đất nhau. Ai chẳng có nêu, nhà hay là đất, thì về quỉ, cho nên thiên hạ phải nêu (dựng nêu). 
...Chùa thờ bụt thì một làng là một chùa, nhà thờ thần thì cũng vậy chẳng kể được cho hết. 
Sau đây là photocopy nét chữ viết tay của Bento Thiện năm 1659, đoạn (*) “Ðến tháng bảy là Tết mùa thu,” để được biết cách viết chữ quốc ngữ cách đây 340 năm như thế nào. 
.............................................................. 
***BẢNG VIẾT TAY TRANG 9 VÀ DẤU TRONG BÀI TRANG 9, CHỖ ÐÁNH DẤU (*) ÐOẠN ÐẦU Chừa chỗ dán đoạn chữ viết tay, cao 1 in 1/4, bề ngang bằng trang báo 
.................................................................. 
Thế kỷ XVIII 
* Kinh Cổ Châu Phật Bản Hạnh (Năm Cảnh Hưng thứ 18) 
...A nan bạch Bụt quì tâu 
Rằng bên Ðông độ khẩu cầu tin thay 
Ðốc lòng tin Bụt trong thầy 
Tôi xin xuất thế sang rày nên chăng 
Thế tôn Bụt mới phán rằng 
Khiến ai có phép thần thông độ người 
(Thích Ðức Nghiệp - Ðạo Phật VN) 
* Phan Mậu Hiên (1767-1800) 
... Lẽ công trên cõi nhờ Trời Bụt 
Ðường lối trong nhà sẵn đất đai... 
(Xử Thế, Văn học VN, Phạm Văn Diêu) 
* Truyện Phan Trần - Vô danh 
...Thoát thôi về chốn tỉnh đường 
Buồn trông phong cảnh tha hương ngập ngừng 
Kìa thì Bụt nọ thì Tăng 
Chẳng hay từ mẫu lạc chừng phương nao? 
(Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển - Dương Quảng Hàm) 
Thế kỷ XIX 
* Phạm Thái (1777-1813) 
Một tập thơ dày ngâm sang sảng 
Vài nai rượu kếch ních tì tì 
Chết về Tiên Bụt cho xong kiếp 
Ðù oả trần gian sống mãi chi? 
(Viết Nam Thi Văn Hợp Tuyển - Dương Quảng Hàm) 
* Lý Văn Phức (viết bài này năm 1834, sau khi đi sứ về) 
Nhờ hòn đất lại nặn nên ông Bụt 
Giấc mộng tàn tỉnh cả chốn cư đình 
(Việt Nam thi Văn Hợp Tuyển - Dương Quảng Hàm) 
* Nguyn công Trứ (1778-1859) 
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng 
(Từ điển Việt Nam - Nguyn Quốc Hùng) 
* Chu Mạnh Trinh (1862-1905) 
...Cầm bằng nương náu qua ngày Bụt 
Ðã chắc nguồn cơn trọn kiếp tu 
(Vịnh Kiều ở chùa, Văn đàn Bảo giám - Trần Trung Viên) 
* Nguyn Khuyến (1835-1909) 
Ai đi Hương Tích chợ trời đi 
Chợt họp quanh năm cả bốn thì 
Ðổi chác người tiên cùng khách bụt 
Họp hàng gió chị lại trăng dì 
(Chơi Chợ Trời Hương Tích, Văn đàn Bảo giám - Trần Trung Viên). 
Thế Kỷ XX 
* Tình Si Tử (?) 
...Khó vậy làm em, giàu đã chị, 
No thì nên Bụt, đói ra ma 
(Hủ nho tự trào, Việt Nam Văn Học Sử yếu - Dương Quảng Hàm) 
* Bà Chúa Liu - Tương truyền có bài giáng bút “Khuyến Thế Nhân” có hai câu được trích sau đây: 
Của Bụt mất một đền mười, xin chớ ăn chay nói dối 
Nam mô một bồ lấy bốn, thà rằng ăn mặn nói ngay 
(Văn đàn Bảo giám - Trần Trung Viên) 
* Tam Thiên Tự - Không rõ tác giả, nhưng vào đầu thế kỷ 20 này, người Việt học chữ Hán thường học tiếng một chữ Hán kèm theo nghĩa Việt, như sau: 
Thiên-trời, Ðịa-đất... Tiên-tiên, Phật-Bụt... 
Xem trên, ta thấy rõ ràng kể từ thế kỷ 13, với các tác phẩm bằng chữ Nôm của Cung đình và Cao tăng triều Trần trở đi, danh từ Bụt vẫn được sử dụng liên tục qua từng thế kỷ, bởi các nhà khoa bảng đỗ đạt cao, vừa viết các tác phẩm bằng chữ Hán, vừa viết văn quốc âm. Duy đến thế kỷ 20 này, hầu như danh từ Bụt biến mất trên văn đàn. Ngay cả trong một số lớn chùa chiền, và kinh sách, cũng rất ít dùng danh từ Bụt. Có ý kiến sơ bộ cho rằng vì dưới thời Pháp thuộc, mọi nỗ lực của giới sĩ phu gần như đều dồn vào việc học chữ Hán để đỗ đạt cao và ra làm quan. Vào thời kỳ tranh tối tranh sáng đó, có lẽ vì phản ứng với cuộc đô hộ của người Pháp, nên lớp sĩ phu cuối trào đã gọi chữ Hán với cách viết bằng bút lông là CHỮ TA, còn chữ quốc ngữ viết bằng ngồi bút sắt là CHỮ TÂY. Lại còn có tâm trạng dè bỉu chữ Nôm, cho rằng Nôm na là cha mách qué. Thêm vào đó kể từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh, hai bên đều có xu hướng mời các cao tăng từ Trung Quốc sang để hoằng hóa. Có lẽ vì những yếu tố nói trên, mà danh từ Bụt đã lần lần đi vào quên lãng
May thay, vào khoảng 15 năm cuối thế kỷ 20 này, đã có một số thiền sư, tăng nitrí thức đã mạnh dạn đứng ra gọi Buddhã là Bụt. Hiện nay, tại một số đạo tràng, như Ðạo tràng Mai thôn ở Pháp, và các khóa thiền tập ở khắp nơi trên thế giới, với hàng trăm người tham dự, người ta gọi Buddhã là Bụt một cách rất tự nhiên, như hít thở không khí bình thường vậy; nhất là đối với thành phần trẻ từ 30, 40 tuổi trở xuống, không hề có một phân vân nào. Nhưng như thế đã đủ chưa? 

IV. Vì sao ngày nay chúng ta dùng lại danh từ Bụt? 

Lẽ ra, câu hỏi cần được đặt ra từ lâu, ít nhất từ vài mươi năm về trước, để chuẩn bị dư luận cho việc thay đổi cách xưng hô này. Nhưng, như đã trình bày trước đây, việc thay đổi một tập quán không dễ gì thực hiện toàn vẹn trong thời gian năm mười năm, mà có khi phải kéo dài đến đôi ba mươi năm. Cứ xét đến sự kiện, vào cuối năm 1997, sau khi một số khá đông người gọi Buddhã là Bụt một cách rất tự nhiên, mà vẫn còn có người cho rằng danh từ Bụt là chữ của ông... này, ông nọ, thì việc giải đáp thắc mắc này không phải là vô ích. Ngay cả đối với giới trẻ đã không có một chút phân vân nào đối với danh từ mới này, nhưng đôi khi vẫn còn phải trả lời cho các thân nhân lớn tuổi khi được nêu thắc mắc. 
Vậy thìlý do gì, ta dùng lại danh từ Bụt? 

Có ba lý do chính sau đây: 

1) Danh từ Bụt được dịch hợp lý từ chữ Phạn Buddhã, vì cùng một âm B với nhau. Xét chung trên thế giới, thì hai thứ tiếng phổ biến nhất là Anh và Pháp, cùng đều dùng âm B để dịch như thế (Pháp: Bouddha, Anh: Buddha). Vả lại nhiều nước Phật giáo Nam Tông cũng dùng âm B để dịch chữ Buddha từ tiếng Phạn, tuy giọng đọc có khác nhau đôi chút. Vả lại, theo trào lưu chung thống nhất cách phiên âm, thì hiện nay, Phật giáo Bắc phương, mà Trung Quốc là tâm điểm, từ lâu vẫn dịch Buddhã là Phật đà.... .... nay vừa mới bắt đầu dùng chữ Bột đà.... .... để gọi bậc Giác ngộ. Theo Tự điển Phật học Hán Việt, Phân viện Nghiên cứu Phật học Hà Nội, xuất bản 1992, mà sách tham khảoThực dụng Phật học Tự điển của Lô Quán Cao và Hà Tử Bồi xuất bản ở Thượng Hải, thì: 
Bột đà.... .... Buddha (Thuật ngữ
Còn gọi là Bột.... đà. Cách gọi cũ là Phật đà. Gọi tắt là Phật - dịch là Giác. Nên nhớ là các tự điển Hán Việt của Ðào Duy Anh và Thiều Chửu đều không có danh từ mới này. 
Cách viết mới của Trung Quốc chữ Bột.... rất giống cách viết chữ Nôm Bụt.... của ta và đều cùng đọc với âm B. Chúng ta rất tri ân Tổ tiên từ thượng cổ của chúng ta đã khéo léo dịch danh từ Buddhã ra chữ Bụt và lưu truyền lại cho chúng ta mãi đến ngày nay. 

2) Làm giàu trở lại ngôn ngữ Việt. Có thể có người hỏi, nếu dùng danh từ Bụt thì chẳng lẽ bỏ danh từ Phật? Xin trả lời rằng, chúng ta sẽ dùng cả hai danh từ, như cha ông chúng ta vẫn thường sử dụng vậy. Hồi năm 1659, và dĩ nhiên trước đó hàng bao nhiêu năm, mà đã có người viết về phong tục Việt Nam rằng: “Nhà giàu thì làm chay đọc kinh mấy ngày thì mặc lòng, mà xin cùng Bụt Ðịa Tạng Mục Liên cho linh hồn được siêu linh Phật quốc lên Thiên đàng.” Trong suốt quá trình lịch sử, các Nho sĩ VN vẫn dùng song hành danh từ Bụt và Phật như thế, thì nay chúng ta dùng cả hai cũng là một điều hợp lý. Có bất hợp lý và kỳ thị chăng, là một người lại chủ trương chỉ dùng danh từ Phật mà thôi, với lý do rất đơn giản rằng danh từ Phật có vẻ linh thiêng hơn, vì từ mấy chục năm qua, tại các chùa, cũng đều dùng như vậy. 

3) Bồi đắp gốc rễ tâm linh. Quả thật đối với một số người lớn tuổi, cỡ năm sáu mươi trở lên, không sinh sống gần gũi với nhân dân miền Bắc, và ít có dịp tiếp cận với văn chương quốc âm, thì sử dụng danh từ Bụt có phần ngỡ ngàng và không chừng còn có mặc cảm là có mới nới cũ nữa. Nhưng như đã được trình bày, sự kiện vào thời cận kim, danh từ Bụt có vẻ như bị biến dạng, chỉ là một sự kiện nhất thời và bất bình thường, so với thời gian dài dằng dặc suốt hơn bảy thế kỷ mà cha ông chúng ta đã sử dụng danh từ ấy. Hơn thế nữa, dân ta vẫn có tiếng nói riêng trước khi có chữ viết, có một nền văn hóa riêng khác với văn hóa Trung Quốc, thì các sinh hoạt về văn hóa tâm linh trải dài trong khoảng 13 thế kỷ ấy, tạm kể từ thời Hai Bà Trưng, nhất định phải có tiếng Việt riêng để gọi Buddhã chứ không phải chỉ có một tiếng Phật mượn từ chữ Nho mà thôi. 

Trong quyển Thiền sư Tăng Hội, An Tiêm Paris xuất bản 1998, Thiền sư Nhất Hạnh đã cho rằng, vào đầu thế kỷ III, Thiền tập ở Giao Châu, tên cũ của nước ta, đã rất phát triển, còn phát triển hơn cả ở Trung Quốc, và “chắc chắn là hồi ấy dân ta đã gọi Buddhã là Bụt, đã biết đọc tam quy ngũ giớixưng tán tam Bảo bằng tiếng Sanskrit, cũng có thể đã biết tụng đọc bằng tiếng Việt.” Dù sao thì thời gian đứt đoạn việc sử dụng danh từ Bụt chỉ là thời gian ngắn so với trường kỳ lịch sử dân tộc và lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Nếu một vài gia đình, sau khi di cư ra nước ngoài, con cháu chỉ muốn gọi Nội Ngoại của mình là Grandpa, Grandma... làm cho các ông Nội, bà Ngoại buồn phiền không ít, thì Tổ tiên lâu đời của chúng ta, nếu có sống lại, mà không được nghe cái thứ tiếng mà xưa kia Quý vị đã từng được nghe, cũng đã từng sử dụng, thì thử hỏi cái buồn sẽ sâu đậm đến như thế nào? Như vậy, nếu có hiển linh, nếu có cảm ứng, thì sự hiển linh, sự cảm ứng đối với cả một dân tộc, tất sẽ sâu xa rộng rãi hơn đối với một vài người. Vả lại, đối với bản thân mỗi người, thì bất cứ lúc nào, cũng được tự do khấn nguyện Phật hay Buddhã, hay Bụt tùy ý thích. 

Ai cũng biết rằng một cây có gốc r sâu thì sức sống và sự chịu đựng mạnh mẽ hơn những cây khác. Cây bông sứ, còn gọi là cây đại, vốn ít chịu lạnh, và gặp lạnh nhiều thì chết, thế nhưng cây đại tại chùa Hoa Yên, núi Yên Tử, được trồng từ thời nhà Trần, nay đã trên bảy trăm tuổi, mà qua bao nhiêu sương tuyết và sấm sét trên núi qua, vẫn đứng “trơ gan cùng tuế nguyệt” chính là nhờ gốc rễ đã bám thật sâu vào lòng đất. 

Sinh hoạt tâm linh của chúng ta gần giống như vậy. Nếu những thành tựu tốt đẹp của tổ tiên tâm linh của chúng ta từ xa xưa mà bị vứt bỏ không thương tiếc, thì không chừng chúng ta sẽ trở thành những cô hồn vất vưởng đâu đó. Cho nên, mỗi một chúng ta trong khi tu tập, nên quán chiếu để tìm mọi cách bồi đắp gốc rễ tâm linh của mình. 

Trong niềm tin đó, để kết thúc bài này, tôi xin mượn ý của Nguyễn Công Trứ, mà nói rằng: “Cái tiếng Bụt mà ngày hôm nay tôi đang nói đây, chính là cái tiếng Bụt mà cổ nhân người Việt chúng ta đã từng nói như vậy trước tôi hàng bao nhiêu thế kỷ rồi.” 

Tháng 2 năm 1999 
Nguyễn Trọng Phu

Source: Thế Kỷ 21 Số 123 07-99

Bài Góp Ý của Ðộc Giả:

Bụt hay Phật? 

Ngôn ngữ của một dân tộc có những tiếng do một lý do nào đó, không được dùng thường nữa, dần dần biến thành tiếng cổ. Thường dùng thì có tác dụng đến tâm trí, tình cảm, không dùng lâu ngày đọc lên nghe xa lạ. Ðó là sự khác nhau giữa sinh ngữ và tử ngữ. Ngay trong truyện Kiều nhiều tiếng xem ra rất thông thường, không phải là chữ Hán, không phải là điển tích, mà không được giảng thì người Việt ngày nay cũng không hiểu, ví dụ: 
Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung 

Ngày nay, ít nhất là trong ngôn ngữ chính thức của cả nước, tiếng nghỉ không có một nghĩa nào khác ngoài động từ nghỉ ngơi. Có thể có rất nhiều người hiểu lầm câu Kiều trên là Gia tư nghĩ cũng..., trong khi Nguyễn Du dùng “nghỉ” như một danh từ hoặc đại từ, và từ ấy ngày nay đã thành tiếng cổ. 
Từ “Bụt” chưa đến nỗi thành tiếng cổ vì vẫn tồn tại nhiều trong truyện cổ tích và văn thơ, nhưng từ “Phật” thì sống động hơn nhiều, vì được dùng phổ biến từ mấy trăm năm, đã biến thành tình cảm sùng mộ của Phật tử Việt Nam. Cố gắng để thay thế chữ này bằng chữ kia có ích gì không? Ngôn ngữ đã đóng vai trò của nó, mỗi tiếng sau một quá trình được sử dụng mang một số “credit” đối với người dùng (và ngược lại không dùng thì credit bị mất đi). Tâm thức của ta được tư tưởng bồi bổ đời này qua đời khác, và tư tưởng thể hiện bằng ngôn ngữ. Chính ngôn ngữphát biểu của tâm thức. Vậy nếu tiếng “Phật” đã có vai trò vững chắc trong tâm thức của ta, nó đại diện cho ý niệm từ bi, hiền hòa, giác ngộ v.v..., bây giờ thay bằng một tiếng từ lâu không còn dùng thường (vì thế ít hoặc không gợi lên một ý niệm tôn giáo triết học nào trong lòng chúng ta), thì ta phải chịu những mất mát khó khăn trong việc thay thế ấy để làm gì? Tiếng “bụt” cũng còn ảnh hưởng, nhưng chỉ mang lại một tình cảm cổ tích trong lòng người Việt thôi, còn về mặt học thuật hay tôn giáo thì không. 

Trong đời sống của bất cứ dân tộc nào cũng thế, luôn luôn cái này thay thế cho cái kia, cuộc sống chảy trôi là một cuộc làm mới không ngừng. Ngôn ngữ cũng phải theo sự thay đổi ấy, vì nó là công cụ để din đạt sự việc. Giả dụ bây giờ có một người từ thời Hai Bà Trưng sống dậy và nói với ta một tràng tiếng Việt của thời đó, liệu ta có thể hiểu nổi không? Mọi cái đã được thay thế, từng tí một theo thời gian. Muốn làm sống lại một từ ngữ đã chết hay đang chết là việc rất khó, cần phải phục hồi lại cả một môi trường sử dụng, trong một thời gian rất dài mới mong có kết quả. Trong khi đó dòng đời vẫn trôi, và mọi sự vật tiếp tục biến thiên... 

Trên đây là đôi ý thô thiển của tôi sau khi tôi đọc bài “Bụt hay Phật” đăng trên Thế Kỷ 21 số 123, tháng Bảy, 1999. 

Lê Vĩnh Kỳ (San Francisco, CA) 

Source: Thế Kỷ 21 Số 124 08-99

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1182)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1651)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1582)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1498)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1086)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1476)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1415)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1335)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1388)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1716)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1980)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1438)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1096)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1429)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2033)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1477)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1564)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1393)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1379)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1411)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1733)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1685)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1636)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1480)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2645)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1609)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1615)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1408)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1428)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1617)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1569)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1446)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1436)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1523)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2206)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1554)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1514)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1632)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1848)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1540)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1419)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1676)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1425)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1718)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2394)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1478)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1965)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1684)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1764)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1623)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1958)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1688)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1444)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1733)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1585)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1554)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1338)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1256)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1302)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant