Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp trừ sầu lo

25 Tháng Năm 201200:00(Xem: 17107)
Pháp trừ sầu lo
PHÁP TRỪ SẦU LO
Toàn Không

 Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp cô độc, một hôm, Vua Ba Tư Nặc ra lệnh quần thần sửa soạn xe ra khỏi thành Xá Vệ đi xem đất để cho xây giảng đường. Trong lúc ấy mẹ của Vua đã một trăm tuổi già yếu, Vua rất tôn kính, thường xuyên thăm hỏi, vừa qua đời.

 Vị cận Thần tên Bất Xà Mật là người tài giỏi, được nhiều người kính trọng nể vì, vị đại Thần này biết Vua đã ra khỏi thành chưa biết việc mẫu Hậu qua đời, nên nghĩ: “Nếu biết mẹ của Vua mất chắc Vua sẽ sầu khổ, sẽ không ăn uống rồi sinh bệnh vì Vua cũng đã gần 80 tuổi rồi; nay ta nên nghĩ cách bày phương tiện khiến Vua không sầu khổ, cũng chẳng sinh bệnh.”

 Nghĩ rồi, vị đại Thần liền cho sửa soạn 500 voi, 500 ngựa, 500 bộ binh, 500 thanh nữ, 500 bà già, 500 phạm chí, 500 bộ quần áo mới đẹp, 500 trân bảo. Lại cho làm quan tài lớn tô vẽ đẹp, có các thanh niên cầm phướn lọng, hòa nhạc vang lừng, tất cả từ từ tiến ra ngoài thành; trong khi ấy, đại Thần Bất Xà Mật đi đón Vua về.

 Lúc ấy Vua đi coi đất xong trở về gặp đại Thần không xa thành, rồi cùng trở vào thành; khi đến gần, Vua trông thấy cảnh ấy liền hỏi đại Thần:

- Đây là người nào mà cúng dàng đến thế?

 Đại Thần tâu:

- Trong thành có mẹ của một Trưởng giả qua đời, những voi, ngựa, thanh niên nam nữ, ông già bà già phạm chí v.v... đều là của họ cả.

 Vua lại hỏi:

- Voi ngựa xe cộ họ dùng làm gì?

 Đại Thần đáp:

- Họ dùng 500 bà già dâng lên Diêm Vương để đổi mạng bà mẹ.

 Vua bật cười rồi nói:

- Đây là lỗi của người ngu, làm sao đổi được mạng, như có người vào miệng cá mập rồi mà mong ra khỏi sao được; đọa vào Vua Diêm La, muốn cầu ra, làm sao ra được?

 Đại Thần nói:

- 500 thanh nữ cũng dùng để mua mạng bà cụ.

- Đây cũng không được, chẳng thể được.

- Nếu không dùng thanh nữ đổi được thì họ dùng 500 trân bảo hoặc 500 quần áo mới đẹp để đổi mạng bà cụ.

- Quần áo, trân bảo cũng chẳng thể đổi được.

- Nếu không dùng được quần áo trân bảo, thì họ dùng chú thuật của 500 Phạm chí để giữ mạng bà cụ lại.

- Đây cũng khó được.

- Nếu dùng chú thuật của 500 Phạm chí không được, thì họ dùng 500 binh lính cùng chiến đấu lớn quyết tâm giữ mạng bà cụ lại.

 Vua đáp:

- Đây là cách của người ngu, đã rơi vào miệng cá mập, chẳng thể ra được; Ông nên biết có ai sinh ra mà không chết đâu?

 Đại Thần nói:

- Đây thực chẳng thể được.

 Vua nói:

- Thực chẳng thể được, đức Phật cũng dạy rằng: “Hễ có sinh là có chết, không ai thoát khỏi được”

 Khi ấy đại Thần Bất Xà Mật quỳ xuống tâu Vua:

- Vì vậy Đại Vương không nên buồn rầu, tất cả đều chết.

 Vua hỏi:

- Cớ sao ta lại buồn rầu?

 Đại Thần tâu:

- Trình Đại Vương, hôm nay thân Mẫu của Đại Vương đã vừa qua đời.

 Vua nghe xong thở dài mấy lần, rồi bảo đại Thần:

- Lành thay! Như lời Ông nói, Ông hay dùng phương tiện khéo léo.

 Rồi Vua vào thành cho bày các thứ hương hoa cúng dường vong Mẫu, lo tang lễ hỏa thiêu xong, nhà Vua lên xe đến chỗ đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc. Đến nơi cúi lạy, Vua ngồi qua một bên. Đức Phật nhìn Vua rồi hỏi:

- Đại Vương! Cớ sao Đại Vương nét mặt không vui, lại lấm bụi đất như thế?

 Vua thưa:

- Bạch Thế Tôn, thân Mẫu con mới qua đời, vừa mới đưa ra ngoài thành lo tang lễ xong; con đến đây để hỏi Thế Tôn một vài thắc mắc. Mẹ con lúc còn sống trì trai tinh tấn, hằng làm lành, vừa đúng 100 tuổi thì qua đời, nên con đến chỗ Thế Tôn.

 Thưa đức Thế Tôn! Nếu có thể đem voi ngựa xe cộ để mua lại mạng cho Mẹ, con sẽ làm ngay; nếu có thể dùng tiền bạc châu báu để mua lại mạng sống cho Mẹ, con sẽ không tiếc của. Nếu có thể dùng nô tỳ, thành quách, nhân dân, đất nước để đổi mạng sống của Mẫu thân, con sẽ đem tất cả để mua, chẳng để cho Mẹ của con chết.

 Đức Phật bảo:

- Này Đại Vương! Chớ sầu não quá, tất cả chúng sanh đều phải chết, tất cả đều biến đổi, muốn cho không thay đổi chẳng thể được. Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi; cũng như sóng nắng dưới ánh mặt trời thiêu đốt tưởng là nước, nó huyễn hóa hư ngụy; thế nên, Đại Vương không nên âu sầu.

 Đại Vương nên biết chẳng thể che chở thân này, chẳng thể lấy ngôn ngữ, chú thuật, dược thảo để che chở thân này; có bốn điều sợ hãi đối với thân này, đó là:

1- Già làm bại hoại tuổi trẻ khiến không còn nhan sắc.

2- Bịnh làm bại hoại người không bệnh.

3- Chết làm bại hoại mạng sống.

4- Vật hữu thường trở thành vô thường.

 Đại Vương, có bốn pháp này chẳng thể che chở, chẳng thể dùng sứchàng phục được; ví như bốn phía có bốn quả núi lớn từ bốn bên ép lại, chẳng thể dùng sức mà trừ được, nên thân này chẳng phải là kiên cố, không thể nương cậy

 Do đó, Đại Vương nên lấy chính pháp trị dân, chớ dùng phi pháp; Đại Vương cũng chẳng bao lâu nữa sẽ đến biển sinh tử. Đại Vương nên biết những người dùng chính pháp trị dân đến khi qua đời sẽ được sinh cõi Trời cõi lành, còn người dùng tà pháp cai trị khi chết đọa vào đường dữ, địa ngục; Đại Vương nên học và nhớ điều này.

 Lúc ấy Vua Ba Tư Nặc thưa:

- Con sẽ vâng làm, xin Thế Tôn cho biết tên pháp này.

 Đức Phật bảo Vua:

- Đây gọi là pháp trừ sầu lo buồn phiền.

 Vua thưa với đức Phật:

- Bạch Thế Tôn, con nghe pháp này rồi bao nhiêu sầu não hôm nay đã trừ sạch, việc nước bề bộn, con xin phép Thế Tôn được trở về.

 Đức Phật bảo:

- Đại Vương nên biết đúng thời.

 Vua Ba Tư Nặc nước Xá Vệ liền đứng dậy lễ Phật rồi lui đi lên xe về cung Vua.

 

LỜI BÀN:

 Bốn điều đức Phật dạy Vua Ba Tư Nặc nước Xá Vệ, những lời này không phải chỉ dành cho Vua Ba Tư Nặc, mà cho tất cả mọi người, không những thời ấy mà cho cả thời nay, chúng ta thử phân tích 4 điều đức Phật dạy:

1-Già làm bại hoại tuổi trẻ khiến không còn nhan sắc:

 Điều này dễ nhận ra, từ khi mới sinh ra bụ bẫm đẹp đẽ dễ thương, lớn dần lên thân hình phát triển nẩy nở khỏe mạnh cường tráng ở tuổi đôi ba mươi; rồi từ đó phải đối phó với cuộc đời, càng ngày càng chồng chất từ tuổi bốn mươi cho đến năm mươi, bắt đầu có vài sợi tóc bạc là bắt đầu cảm thấy già. Từ tuổi năm mươi trở lên mỗi ngày cảm thấy cằn cỗi hơn, cảm thấy yếu hơn, nhan sắc kém tươi đẹp hơn; tới tuổi 60, 70, 80, những sự nêu trên lại càng thể hiện rõ ràng hơn nữa. Vì vậy đức Phật nói “Gìa làm bại hoại tuổi trẻ khiến không nhan sắc” là quá rõ ràng, không ai có thể chối cãi được.

2- Bịnh làm bại hoại người không bệnh: 

 Tại sao bệnh làm bại hoại người không bịnh? Vì người không bịnh thấy người bệnh mà lo cho người bịnh, lo cứu người ốm đau, lo tiền lo thuốc, lo săn sóc cho người bệnh, lo ngày lo đêm cho người bệnh để làm sao cho người bệnh được tai qua nạn khỏi. Như vậy vì lo lắng trăm bề như thế sẽ làm cho người không bệnh mất ăn mất ngủ, trở thành ốm o gầy mòn, trở thành bại hoại thành bệnh.

 Đi xa hơn, một điểm cần đề cập tới là người không bệnh khi nhìn thấy người khác mắc bệnh nan y khó chữa, người không bịnh ấy đâm ra sợ hãi cái bệnh ấy. Vì sợ hãi mà phải lo lắng, tìm đủ cách đề phòng để làm sao không mắc phải bịnh khó chữa ấy; cũng vì sự sợ hãi nên không yên tâm, trong tuổi già mà không an tâm sẽ dễ đi đến bại hoại nhanh chóng. Vì thế cho nên Phật bảo: “Bịnh làm bại hoại người không bệnh.” là vậy.

3- Chết làm bại hoại mạng sống:

 Lời dạy này quá rõ ràng. Khi chết thì mạng sống chấm dứt một đời để qua đời khác, và dĩ nhiên đời sống hiện tại bị tan hoại, thân xác trở về với đất nước gió lửa. Thịt xương móng tóc trở về với đất, máu huyết chất lỏng trở về với nước, hơi thở không khí trong người trở về với gió, hơi ấm trong người trở về với lửa; vì thế cho nên Phật bảo: “Chết làm bại hoại mạng sống.

4- Vật hữu thường trở về vô thường:

 Tại sao vật hữu thường trở về vô thường? Những vật dụng của chúng ta là vật hữu thường, nhưng sau một thời gian thì hư hỏng nên trở thành vật vô thường; như cái xe, cái bàn, cái nhà, quần áo v.v... tất cả mỗi thứ tùy theo thời gian lâu mau khác nhau rồi cũng biến đổi hư hỏng. Do đó tất cả vật chất đều trở về vô thường.

 Nhìn xa hơn nữa, khi chúng ta tạo dựng được cái nhà hay mua được một số đất đai, nhưng khi chúng ta chết rồi chẳng thể mang theo được. Những thứ đó đối với mình là người tạo dựng, dù vật ấy vẫn còn đó, cũng trở thành vô thường đối với mình mà thôi.

 Vì thế cho nên, đức Phật nói: “Vật hữu thường trở về vô thường”, tất cả đều là vô thường cả; hiểu và nhận chân được lý lẽ này, chúng ta sẽ sống bình thản trước mọi sự đổi thay.

---::---

 Đoạn cuối của bài Kinh, đức Phật lưu ý rằng chẳng có sức nào chống nổi bốn điều trên, cũng như chẳng có sức nào có thể chống lại bốn ngọn núi lớn từ bốn phía ép tới; Đức Phật lưu ý thân con người không kiên cố, chẳng thể nương cậy, rồi Ngài bảo Vua còn chẳng bao lâu nữa Vua sẽ đến biển sinh tử; lúc ấy Vua Ba Tư Nặc đã gần 80 tuổi rồi và chỉ ít năm sau Vua Ba Tư Nặc cũng qua đời.

 Đức Phật khuyên Vua nên dùng chính pháp để trị dân, chính phápcông bằng đạo đức, thương dân giúp dân, tránh sưu cao thuế nặng, tránh hà hiếp bóc lột, thực hành dân chủ tư do v.v... Nếu dùng chính pháp trị dân khi qua đời sẽ được sinh cõi lành, ngược lại nếu dùng tà pháp cai trị dân sẽ bị đọa vào đường dữ; đây là những lời dạy mà ai cũng nên học và nhớ thực hành, nhất là đối với những người đang có quyền hành địa vị vậy.

 

Toàn Không

(CÙNG TÁC GIẢ)

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7154)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
(Xem: 6948)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
(Xem: 9677)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
(Xem: 23186)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
(Xem: 8157)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20601)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19589)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18466)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16316)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15976)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19148)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14368)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9678)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8774)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8239)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8945)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 11025)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9171)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8941)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 8000)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9127)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35682)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8602)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15152)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8738)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15347)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9203)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8879)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9400)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8514)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10340)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7705)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9593)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7560)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17287)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15074)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9545)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20930)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9251)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7198)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17763)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17689)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25873)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7858)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9953)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7295)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9689)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8171)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9137)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7445)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8824)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7952)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8390)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7563)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8766)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8194)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8915)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7325)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 14043)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7149)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant