Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp trừ sầu lo

25 Tháng Năm 201200:00(Xem: 17104)
Pháp trừ sầu lo
PHÁP TRỪ SẦU LO
Toàn Không

 Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp cô độc, một hôm, Vua Ba Tư Nặc ra lệnh quần thần sửa soạn xe ra khỏi thành Xá Vệ đi xem đất để cho xây giảng đường. Trong lúc ấy mẹ của Vua đã một trăm tuổi già yếu, Vua rất tôn kính, thường xuyên thăm hỏi, vừa qua đời.

 Vị cận Thần tên Bất Xà Mật là người tài giỏi, được nhiều người kính trọng nể vì, vị đại Thần này biết Vua đã ra khỏi thành chưa biết việc mẫu Hậu qua đời, nên nghĩ: “Nếu biết mẹ của Vua mất chắc Vua sẽ sầu khổ, sẽ không ăn uống rồi sinh bệnh vì Vua cũng đã gần 80 tuổi rồi; nay ta nên nghĩ cách bày phương tiện khiến Vua không sầu khổ, cũng chẳng sinh bệnh.”

 Nghĩ rồi, vị đại Thần liền cho sửa soạn 500 voi, 500 ngựa, 500 bộ binh, 500 thanh nữ, 500 bà già, 500 phạm chí, 500 bộ quần áo mới đẹp, 500 trân bảo. Lại cho làm quan tài lớn tô vẽ đẹp, có các thanh niên cầm phướn lọng, hòa nhạc vang lừng, tất cả từ từ tiến ra ngoài thành; trong khi ấy, đại Thần Bất Xà Mật đi đón Vua về.

 Lúc ấy Vua đi coi đất xong trở về gặp đại Thần không xa thành, rồi cùng trở vào thành; khi đến gần, Vua trông thấy cảnh ấy liền hỏi đại Thần:

- Đây là người nào mà cúng dàng đến thế?

 Đại Thần tâu:

- Trong thành có mẹ của một Trưởng giả qua đời, những voi, ngựa, thanh niên nam nữ, ông già bà già phạm chí v.v... đều là của họ cả.

 Vua lại hỏi:

- Voi ngựa xe cộ họ dùng làm gì?

 Đại Thần đáp:

- Họ dùng 500 bà già dâng lên Diêm Vương để đổi mạng bà mẹ.

 Vua bật cười rồi nói:

- Đây là lỗi của người ngu, làm sao đổi được mạng, như có người vào miệng cá mập rồi mà mong ra khỏi sao được; đọa vào Vua Diêm La, muốn cầu ra, làm sao ra được?

 Đại Thần nói:

- 500 thanh nữ cũng dùng để mua mạng bà cụ.

- Đây cũng không được, chẳng thể được.

- Nếu không dùng thanh nữ đổi được thì họ dùng 500 trân bảo hoặc 500 quần áo mới đẹp để đổi mạng bà cụ.

- Quần áo, trân bảo cũng chẳng thể đổi được.

- Nếu không dùng được quần áo trân bảo, thì họ dùng chú thuật của 500 Phạm chí để giữ mạng bà cụ lại.

- Đây cũng khó được.

- Nếu dùng chú thuật của 500 Phạm chí không được, thì họ dùng 500 binh lính cùng chiến đấu lớn quyết tâm giữ mạng bà cụ lại.

 Vua đáp:

- Đây là cách của người ngu, đã rơi vào miệng cá mập, chẳng thể ra được; Ông nên biết có ai sinh ra mà không chết đâu?

 Đại Thần nói:

- Đây thực chẳng thể được.

 Vua nói:

- Thực chẳng thể được, đức Phật cũng dạy rằng: “Hễ có sinh là có chết, không ai thoát khỏi được”

 Khi ấy đại Thần Bất Xà Mật quỳ xuống tâu Vua:

- Vì vậy Đại Vương không nên buồn rầu, tất cả đều chết.

 Vua hỏi:

- Cớ sao ta lại buồn rầu?

 Đại Thần tâu:

- Trình Đại Vương, hôm nay thân Mẫu của Đại Vương đã vừa qua đời.

 Vua nghe xong thở dài mấy lần, rồi bảo đại Thần:

- Lành thay! Như lời Ông nói, Ông hay dùng phương tiện khéo léo.

 Rồi Vua vào thành cho bày các thứ hương hoa cúng dường vong Mẫu, lo tang lễ hỏa thiêu xong, nhà Vua lên xe đến chỗ đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc. Đến nơi cúi lạy, Vua ngồi qua một bên. Đức Phật nhìn Vua rồi hỏi:

- Đại Vương! Cớ sao Đại Vương nét mặt không vui, lại lấm bụi đất như thế?

 Vua thưa:

- Bạch Thế Tôn, thân Mẫu con mới qua đời, vừa mới đưa ra ngoài thành lo tang lễ xong; con đến đây để hỏi Thế Tôn một vài thắc mắc. Mẹ con lúc còn sống trì trai tinh tấn, hằng làm lành, vừa đúng 100 tuổi thì qua đời, nên con đến chỗ Thế Tôn.

 Thưa đức Thế Tôn! Nếu có thể đem voi ngựa xe cộ để mua lại mạng cho Mẹ, con sẽ làm ngay; nếu có thể dùng tiền bạc châu báu để mua lại mạng sống cho Mẹ, con sẽ không tiếc của. Nếu có thể dùng nô tỳ, thành quách, nhân dân, đất nước để đổi mạng sống của Mẫu thân, con sẽ đem tất cả để mua, chẳng để cho Mẹ của con chết.

 Đức Phật bảo:

- Này Đại Vương! Chớ sầu não quá, tất cả chúng sanh đều phải chết, tất cả đều biến đổi, muốn cho không thay đổi chẳng thể được. Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi; cũng như sóng nắng dưới ánh mặt trời thiêu đốt tưởng là nước, nó huyễn hóa hư ngụy; thế nên, Đại Vương không nên âu sầu.

 Đại Vương nên biết chẳng thể che chở thân này, chẳng thể lấy ngôn ngữ, chú thuật, dược thảo để che chở thân này; có bốn điều sợ hãi đối với thân này, đó là:

1- Già làm bại hoại tuổi trẻ khiến không còn nhan sắc.

2- Bịnh làm bại hoại người không bệnh.

3- Chết làm bại hoại mạng sống.

4- Vật hữu thường trở thành vô thường.

 Đại Vương, có bốn pháp này chẳng thể che chở, chẳng thể dùng sứchàng phục được; ví như bốn phía có bốn quả núi lớn từ bốn bên ép lại, chẳng thể dùng sức mà trừ được, nên thân này chẳng phải là kiên cố, không thể nương cậy

 Do đó, Đại Vương nên lấy chính pháp trị dân, chớ dùng phi pháp; Đại Vương cũng chẳng bao lâu nữa sẽ đến biển sinh tử. Đại Vương nên biết những người dùng chính pháp trị dân đến khi qua đời sẽ được sinh cõi Trời cõi lành, còn người dùng tà pháp cai trị khi chết đọa vào đường dữ, địa ngục; Đại Vương nên học và nhớ điều này.

 Lúc ấy Vua Ba Tư Nặc thưa:

- Con sẽ vâng làm, xin Thế Tôn cho biết tên pháp này.

 Đức Phật bảo Vua:

- Đây gọi là pháp trừ sầu lo buồn phiền.

 Vua thưa với đức Phật:

- Bạch Thế Tôn, con nghe pháp này rồi bao nhiêu sầu não hôm nay đã trừ sạch, việc nước bề bộn, con xin phép Thế Tôn được trở về.

 Đức Phật bảo:

- Đại Vương nên biết đúng thời.

 Vua Ba Tư Nặc nước Xá Vệ liền đứng dậy lễ Phật rồi lui đi lên xe về cung Vua.

 

LỜI BÀN:

 Bốn điều đức Phật dạy Vua Ba Tư Nặc nước Xá Vệ, những lời này không phải chỉ dành cho Vua Ba Tư Nặc, mà cho tất cả mọi người, không những thời ấy mà cho cả thời nay, chúng ta thử phân tích 4 điều đức Phật dạy:

1-Già làm bại hoại tuổi trẻ khiến không còn nhan sắc:

 Điều này dễ nhận ra, từ khi mới sinh ra bụ bẫm đẹp đẽ dễ thương, lớn dần lên thân hình phát triển nẩy nở khỏe mạnh cường tráng ở tuổi đôi ba mươi; rồi từ đó phải đối phó với cuộc đời, càng ngày càng chồng chất từ tuổi bốn mươi cho đến năm mươi, bắt đầu có vài sợi tóc bạc là bắt đầu cảm thấy già. Từ tuổi năm mươi trở lên mỗi ngày cảm thấy cằn cỗi hơn, cảm thấy yếu hơn, nhan sắc kém tươi đẹp hơn; tới tuổi 60, 70, 80, những sự nêu trên lại càng thể hiện rõ ràng hơn nữa. Vì vậy đức Phật nói “Gìa làm bại hoại tuổi trẻ khiến không nhan sắc” là quá rõ ràng, không ai có thể chối cãi được.

2- Bịnh làm bại hoại người không bệnh: 

 Tại sao bệnh làm bại hoại người không bịnh? Vì người không bịnh thấy người bệnh mà lo cho người bịnh, lo cứu người ốm đau, lo tiền lo thuốc, lo săn sóc cho người bệnh, lo ngày lo đêm cho người bệnh để làm sao cho người bệnh được tai qua nạn khỏi. Như vậy vì lo lắng trăm bề như thế sẽ làm cho người không bệnh mất ăn mất ngủ, trở thành ốm o gầy mòn, trở thành bại hoại thành bệnh.

 Đi xa hơn, một điểm cần đề cập tới là người không bệnh khi nhìn thấy người khác mắc bệnh nan y khó chữa, người không bịnh ấy đâm ra sợ hãi cái bệnh ấy. Vì sợ hãi mà phải lo lắng, tìm đủ cách đề phòng để làm sao không mắc phải bịnh khó chữa ấy; cũng vì sự sợ hãi nên không yên tâm, trong tuổi già mà không an tâm sẽ dễ đi đến bại hoại nhanh chóng. Vì thế cho nên Phật bảo: “Bịnh làm bại hoại người không bệnh.” là vậy.

3- Chết làm bại hoại mạng sống:

 Lời dạy này quá rõ ràng. Khi chết thì mạng sống chấm dứt một đời để qua đời khác, và dĩ nhiên đời sống hiện tại bị tan hoại, thân xác trở về với đất nước gió lửa. Thịt xương móng tóc trở về với đất, máu huyết chất lỏng trở về với nước, hơi thở không khí trong người trở về với gió, hơi ấm trong người trở về với lửa; vì thế cho nên Phật bảo: “Chết làm bại hoại mạng sống.

4- Vật hữu thường trở về vô thường:

 Tại sao vật hữu thường trở về vô thường? Những vật dụng của chúng ta là vật hữu thường, nhưng sau một thời gian thì hư hỏng nên trở thành vật vô thường; như cái xe, cái bàn, cái nhà, quần áo v.v... tất cả mỗi thứ tùy theo thời gian lâu mau khác nhau rồi cũng biến đổi hư hỏng. Do đó tất cả vật chất đều trở về vô thường.

 Nhìn xa hơn nữa, khi chúng ta tạo dựng được cái nhà hay mua được một số đất đai, nhưng khi chúng ta chết rồi chẳng thể mang theo được. Những thứ đó đối với mình là người tạo dựng, dù vật ấy vẫn còn đó, cũng trở thành vô thường đối với mình mà thôi.

 Vì thế cho nên, đức Phật nói: “Vật hữu thường trở về vô thường”, tất cả đều là vô thường cả; hiểu và nhận chân được lý lẽ này, chúng ta sẽ sống bình thản trước mọi sự đổi thay.

---::---

 Đoạn cuối của bài Kinh, đức Phật lưu ý rằng chẳng có sức nào chống nổi bốn điều trên, cũng như chẳng có sức nào có thể chống lại bốn ngọn núi lớn từ bốn phía ép tới; Đức Phật lưu ý thân con người không kiên cố, chẳng thể nương cậy, rồi Ngài bảo Vua còn chẳng bao lâu nữa Vua sẽ đến biển sinh tử; lúc ấy Vua Ba Tư Nặc đã gần 80 tuổi rồi và chỉ ít năm sau Vua Ba Tư Nặc cũng qua đời.

 Đức Phật khuyên Vua nên dùng chính pháp để trị dân, chính phápcông bằng đạo đức, thương dân giúp dân, tránh sưu cao thuế nặng, tránh hà hiếp bóc lột, thực hành dân chủ tư do v.v... Nếu dùng chính pháp trị dân khi qua đời sẽ được sinh cõi lành, ngược lại nếu dùng tà pháp cai trị dân sẽ bị đọa vào đường dữ; đây là những lời dạy mà ai cũng nên học và nhớ thực hành, nhất là đối với những người đang có quyền hành địa vị vậy.

 

Toàn Không

(CÙNG TÁC GIẢ)

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6310)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8548)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5274)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5837)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7466)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6382)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5976)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4763)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5711)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5892)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6134)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6606)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5962)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7080)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6689)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4823)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4959)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7738)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9847)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7560)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5350)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6448)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5454)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5866)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6432)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5710)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6449)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7075)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6299)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10682)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6694)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6198)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6755)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6152)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6515)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5537)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8275)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5747)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7573)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6265)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9669)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4074)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6402)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4191)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4315)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4781)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5340)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5298)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5828)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6793)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5561)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4509)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5340)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 5009)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4377)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6881)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4624)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8429)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7226)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8386)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant