Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết giảng tại chùa Quang Minh - Úc Đại Lợi

26 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 28522)
Đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết giảng tại chùa Quang Minh - Úc Đại Lợi
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
THUYẾT GIẢNG TẠI CHÙA QUANG MINH - ÚC ĐẠI LỢI
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 04/06/2012


dalailama-australia-0Các anh chị em tâm linh thân mến, đặc biệt với cộng đồng Tăng Già Việt Nam, và tôi nghĩ có một số vị sư cô ở đây, Tì kheo ni, có phải không?

Tôi thật sự vui mừng với lần thứ hai tôi thăm viếng nơi này, với một ngôi chùa mới và rất lớn, hết bao nhiêu tiền đấy? (mọi người cười)

Tôi nghĩ Đạo Phật là một tôn giáo cổ xưa từ Ấn Độ rồi lan truyền qua Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Cam pu chia, Lào, Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn rồi thì sau nàyTây Tạng, Mongolia và một bộ phận ở Liên Bang Nga, những vùng này theo Đạo Phật, và Ấn Độ là chiếc nôi của Đạo Phật nhưng đại đa số quần chúng là Ấn Giáo, cũng như Hồi Giáo, Ki Tô Giáo, và những đạo khác. 

 Nhưng thế nào đi nữa, chúng ta đang ở trong thế kỷ 21, kỹ thuật phát triển cao độ. Tôi nghĩ trong một hay hai thế kỷ qua. Tất cả mọi nỗ lực, tất cả mọi năng lượng đều tập trung trong sự phát triển kinh tế, về tiền (cười). Bây giờ tôi nghĩ, ngay chúng ta thật sự mở rộng trong yêu cầu của tiền, tất cả những sự lũng đoạn, tất cả những kỹ thuật nhơ bẩn nhằm để kiếm ra tiền. Có phải thế không? Tôi nghĩ tiền thật sự đầu độc nguyên tắc đạo đức của chúng ta. Tôi thật sự nghĩ thế! Và rồi trong khi ấy không chỉ nguyên tắc đạo đức bị suy đồi mà tiền cũng làm gia tăng ghen tỵ, nghi ngờ và rồi thì là thất vọng và đưa đến kết quả giận dữ, bạo động.

Vậy thế nào đi nữa, một điều rất rõ ràng, chỉ đơn thuần vật chất sẽ không mang đến hòa bình nội tại, điều ấy là chắc chắn. Bởi vì tiền mang đến tiện nghi làm thoải mái thân thể chứ không phải tâm hồn.

dalailama-australia-1

Chánh điện Chùa Quang Minh

Trong siêu thị nếu quý vị thử tìm mua sự bình an của tâm hồn, không thể được. Hay tất cả những cửa hàng dụng cụ kỹ thuật, nếu quý vị hỏi mua một khí cụ để làm an ổn tinh thần; không [không thể có]. Sự hòa bình của tâm tư phải đến từ bên trong, bởi vì đa số những sự quấy rầy an bình nội tại là cảm xúc của chúng ta. Không phải những kẻ thù ngoại tại, không phải những kẻ gây rối bên ngoài mà những yếu tố tàn phá tâm thức chúng ta chính là những cảm xúc tiêu cực của chính chúng ta. Vậy thì một cách tự nhiên, một cách hợp lý, một phương pháp hiệu quả để làm giảm thiểu những cảm xúc tàn phá phải được phát triển trong tâm thức, từ chính những cảm xúc ấy.

Nên ngày nay tôi cũng nói với mọi người, trong vài nghìn năm trước, tôi nghĩ bốn, năm nghìn năm, chúng ta mở mang tín ngưỡng, và chúng ta đặt trọn niềm hy vọng của chúng ta vào tín ngưỡng, bất cứ khi nào chúng ta gặp khó khăn, chúng ta [chấp tay lại] cầu nguyện đến Thượng Đế hay điều gì đấy, điều gì đấy huyền bí. Rồi thì ba trăm năm trở lại đây khoa học, kỹ thuật phát triển. Rồi khoa học, kỹ thuật lập tức mang đến cho chúng ta... tiện nghi sẵn sàng, mọi thứ trở nên dễ dàng nên con người tự nhiên chú ý hơn với khoa học và kỹ thuật hơn là tín ngưỡng. Rồi thì sau này vào thế kỷ 20 qua kinh nghiệm cuối cùng chúng ta nhận ra sự giới hạn của giá trị vật chất.

Tôi biết một số gia đình rất giàu có tôi nghĩ là tỉ phú, những người ấy ở trình độ con người là những người rất không vui. Họ có hàng triệu triệu đô la nhưng thất bại trong việc mang niềm vui nội tại, rất rõ ràng.

 Và rồi một vấn đề khác nữa, trong những nhà khoa học, kiến thức của họ về não bộ, về thần kinh, những thứ này rất phát triển. Rồi cuối cùng họ thích thú về vấn đề cảm xúc là gì? Tâm thức là gì? Bởi vì y học, họ chỉ chú ý đến mảng tâm thức thật sự rất quan trọng đến sức khỏe lành mạnh, cũng như hồi phục từ bệnh tật, từ giải phẫu, một mảng tâm thức... rất quan trọng đối với họ. Cho nên bây giờ y học, cũng như những nhà chuyên môn về não bộ. Một số nhà khoa học hàng đầu thật sự biểu lộ sự hấp dẫn với vấn đề, cảm xúc là gi? Mối quan hệ giữa cảm xúc và não bộ là thế nào?

Bây giờ, những ngày này, trong những nhà khoa học ưa thích việc rèn luyện tâm thức với giải phẫu não bộ, với những chất kích thích trong não bộ. Qua việc rèn luyện tâm thức, thật sự có thể thay đổi,...Lần đầu tiên họ khám phá ra việc này. Nên qua việc rèn luyện tâm thức ngay cả những bộ phận vật lý có thể thay đổi. Vì vậy, hai nhân tố, từ kinh nghiệm giới hạn, hay giá trị vật chất. Và mặt khác sự nghiên cứu khoa học, bắt đầu tập trung vào vấn đề, tâm thức là gì? Làm thế nào để thay đổi tâm thức chúng ta? Thay đổi cảm xúc chúng ta như thế nào? 

Vì những nhân tố này, có những biểu lộ, đặc biệt trong những người trẻ tuổi đã bắt đầu khuếch trương những quan tâm về các giá trị nội tại, tâm linh. Tôi nghĩ đấy là hình ảnh thế giới của thế kỷ 21. Rồi thì tôi cũng nghĩ con người ở khắp mọi nơi, đặc biệt ở Âu châu, và Hoa Kỳ, tôi nghĩ là thật sự chán ngấy với bạo động, Úc châu so sánh chắc khá hơn (cười).

Nên con người, tôi nghĩ con người ở buổi đầu thế kỷ trước, khi quốc gia tuyên chiến với lân bang, dân chúng cả nước, tự hào, không thắc mắc gì, tham gia nỗ lực chiến tranh. Tình thế như vậy hoàn toàn thay đổi và cuối thế kỷ. Và bắt đầu thế kỷ 21, thí dụ khi Hoa Kỳ sắp bắt đầu chiến tranh với Iraq, bao nhiêu người từ Hoa Kỳ đến Úc Đại Lợi phản đối bạo động và muốn hòa bình qua biểu tình. Và dĩ nhiên,nhiều người quan tâm, những quốc gia quan tâm chống lại chiến tranh, chống lại bạo động, chống lại việc sử dụng bạo lực. Nên họ thật sự khao khát hòa bình. Hoàn toàn chán ngấy với bạo động. Vì thế, một lần nữa, câu hỏi là, làm thế nào mang hòa bình đến?

Hòa bình không có nghĩa là không có những rắc rối khác. Cho đến khi mà con người còn tồn tại trên hành tinh này, những vấn nạn nào đấy bắt buộc phải xảy ra. Do bởi nhận thức của con người, lòng tham của loài người, khao khát của loài người. Nên vấn nạn sẽ tiếp tục tồn tại. Bây giờ chúng ta cần phương pháp thực tiễn để giải quyết xung đột, sự không đồng ý này. Nên đấy là đối thoại. Tôi thường nói với mọi người, thế kỷ 20 trở thành thế kỷ của tắm máu, căn cứ theo lịch sử, khoảng hai trăm triệu người bị giết một cách bạo động qua chiến tranh, một con số đáng kinh hoàng.

Nếu một cuộc chiến lan rộng sử dụng vũ khí nguyên tử, mà nó có thể mang đến hòa bình, giảm thiểu rắc rối thì cũng okay, nó cũng chính đáng. Nhưng không phải như thế. Chỉ có khổ đau. Cho nên, bây giờ thế kỷ 21 chúng ta phải làm cho nó là thế kỷ của đối thoại.

Nhằm để mang đến đối thoại, chúng ta cần sự tôn trọng tâm linh đối với quyền lợi của người khác. Không chỉ là sự quan tâm của tôi, sức mạnh của tôi và dửng dưng với sự quan tâm của người khác thì làm sao đối thoại. Nên trong sự tôn trọng ấy, tinh thần chân thành với tình anh chị em, toàn thể gần bảy tỉ người có thể xem như những người anh chị em, chúng ta phải chăm nom đến sự quan tâm của họ. Với loại thái độ như thế thì sự đối thoại đầy đủ ý nghĩa mới có thể phát triển.

Nên trong sự quan tâm ấy, căn bản truyền thống ấy... là một khả năng vô hạn để đem đến tình anh chị em chân thành. Mọi truyền thống tôn giáo đều có cùng khả năng, cho dù khác biệt triết lý. Có những tôn giáo hữu thần như Ki Tô Giáo,... niềm tin chủ yếu của họ là Thượng Đế. Những tín ngưỡng vô thần như Phật Giáo, Kỳ Na Giáo, và một số tư tưởng cổ truyền khác nữa của Ấn Độ không có khái niệm Thượng Đế, không có đấng tạo hóa, nhưng tự chính chúng ta là tạo hóa. Nên triết lý là rất khác biệt, nên theo quan điểm của những tôn giáo hữu thần, những Phật tử chúng ta là người không có đức tin (tín ngưỡng vô thần).

Nên tất cả mọi tôn giáo, mặc dù khác biệt triết lý nhưng cùng mang một giáo huấn, cùng một sự thực hành về từ ái, bi mẫn, tha thứ, bao dung, tự giác. Tất cả những thứ này là cùng như nhau về thực hành, cùng giống nhau trong một thông điệp. Nên tất cà mọi tôn giáo quan trọng đều có cùng khả năng để hỗ trợ con người.

Bây giờ về Phật Giáo, Đạo Phật ngày nay tôi nghĩ, như tôi đã đề cập trước đây, cũng bao hàm những sự thực tập về từ ái, bi mẫn, tha thứ, bao dung, ... như những tôn giáo quan trọng. Rồi thì khía cạnh triết lý rất phức tạp. Như Đại Học Tu Viện Na Lan Đà, không chỉ là một trung tâm Phật Giáo, nhưng là một trung tâm chuyên môn, một học viện hàn lâm. Và nhiều đạo sư Na Lan Đà, tôi thường diễn tả là những giáo sư của Na Lan Đà. Những đại sư này đã sáng tác, thật sự là những chủ đề chuyên môn, các ngài tiến hành khảo sát: Thực tại là gì? Bản chất là thế nào? Bản chất của vật chất, bản chất của tâm thức. Phần ấy tôi cho là khoa học. Không phải là tôn giáo mà là khoa học.

Trong ba mươi năm qua, ô không, trong khoảng bảy năm qua, tôi đã dấn thân một cách nghiêm túc với những nhà khoa học hiện nghiên cứu xa hơn về tâm thức, về cảm xúc, kiểm soát cảm xúc này như thế nào. Bây giờ khoa học, thí dụ ở Hoa Kỳ, Đại Học Wisonsin, Emory và Stanford và một vài đại học nữa, họ thật sự tiến hành công việc nghiên cứu về tâm thức theo sự giải thích của Đạo Phật về tâm. Họ đã tìm thấy những thông tin hữu ích từ tài liệu cổ điển của Ấn Độ về vấn đề này, không chỉ Phật Giáo mà cũng của Ấn Giáo.

Cho nên có một số người vốn duy trì khoảng cách với bất cứ tôn giáo nào, nhưng trong con mắt của họ Đạo Phật bây giờ là một ngoại lệ. Bởi vì nó không nhất thiết liên hệ với những khái niệm của Đạo Phật về kiếp sống tới, nghiệp báo,... những thứ này, nhưng mà là về khoa học tâm thức của Phật Giáo, về cảm xúc. Nên hoàn toàn rõ ràng rằng, theo kinh nghiệm trong ba mươi năm qua của tôi, bây giờ rất rõ ràng, khoa học Phật Giáo chắc chắn có thể có những cống hiến nổi bật trong khoa học hiện đại liên hệ đến tâm thức cảm xúc, những thứ này.

Bây giờ, đối với người Việt Nam, một cách truyền thống là một quốc gia Phật Giáo. Về truyền thống Phật Giáo, có truyền thống tiếng Phạn và tiếng Pali, chúng ta cùng theo truyền thống Phạn ngữ, chúng ta cùng theo truyền thống Na Lan Đà, những học giả Na Lan Đà như Mã Minh, Long Thọ, Vô Trước,..., tất cả những đạo sư Na Lan Đà này, những giáo sư này, chúng ta cùng kế tục giáo huấn của những vị này.

Và một khía cạnh khác, người Việt Nam đã trải qua những thời điểm khó khăn, chúng tôi cũng thế (cười), trong ý nghĩa ấy chúng ta thật sự là những người anh chị em (cười). Những thời gian thay đổi, có những vị tăng ni từ Việt Nam đến Ấn Độ để học hỏi Giáo huấn, nghe giảng dạy ở đấy. Dường như thay đổi, và ngay cả có những thân quyến của các lãnh tụ Cộng Sản đã đến đấy. Nên sự việc đang thay đổi. Nên thế nào đi nữa những người Việt Nam nào sống trong những quốc gia như Pháp, Mỹ, cũng như Úc, bất cứ quý vị sống nơi nào, quý vị mang trong mình truyền thống của quý vị, tâm linh của quý vị. Do thế, ở Úc Đại Lợi, vốn là một quốc gia không phải theo Đạo Phật, vốn là một đất nước Ki Tô Giáo, nhưng quý vị đã tìm ra một nơi để thiết lập chùa viện của quý vị, nhằm để giữ gìn tâm linh Phật Giáo của quý vị, tôi thật cảm phục.

dalailama-australia-2

Một khác biệt nhỏ là Việt Nam là một đất nước rất nóng nhưng quý vị mặc áo tay dài. Còn Tây Tạng là một đất nước rất mát, nhưng tay tôi để trần - không có tay áo (ngài đưa tay phải ra - mọi người cười).

Bây giờ, bất cứ những Phật tử nào, dù là người Hoa, Nhật, Hàn, Việt, Thái, Tích Lan, Miến Điện, và Tây Tạng, Mongolia... tôi luôn luôn tuyên bố rằng: Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản

Một cách truyền thống, chúng ta tự cho là Phật tử nhưng thật sự không biết Đạo Phật là gì. Tôi thường đùa những Phật tử Trung Hoa rằng, thật không phải [đúng nghĩa Phật tử khi chỉ chấp tay và nói] A Di Đà Phật, A Mi Tò Phù, A Mi Tò Phù! (Cười). Và với người Tây Tạng tôi thường đùa với họ rằng, trì niệm một mật ngôn nổi tiếng, Lục tự đại minh chơn ngôn của Quan Âm, Án Ma Ni Bát Di Hồng, Om Mani Padme Hum, Om Mani Padme Hum,..., khi quý vị đọc nhanh, giống như, om moni, moni, moni,... (mọi người cười) âm thanh ấy nghe giống như money, money,...(money = tiền). Cho nên, không có kiến thức, không biết ý nghĩa và rất thường khi tôi gặp những Phật tử Ấn Độ hay Tây Tạng..., những sinh viên, khi tôi hỏi họ: - Tôn giáo của quý vị là gì? Họ trả lời: Phật Giáo. Sau đó tôi hỏi, Phật là gì? Không có câu trả lời. Không biết. Đức Phật được xem như chỉ là một nhân vật lịch sử. Thế ấy là không đủ. Quý vị phải biết Đạo Phật thật sự là gì! Và cũng như những người Ki Tô, quý vị phải biết điều Chúa Giê-su dạy thật sự là gì! Chỉ tự nhận là Ki Tô hữu, làm dấu thánh giá là không đủ.

Vì thế, như Phật Pháp mà tôi đã đề cập phía trước là một triết lý phong phú toàn triệt nên chúng ta phải học hỏi nghiên cứu những thứ này.

Trước nhất là khoa học Phật Giáo, trên căn bản của khoa học Phật Giáo rồi thì triết lý Phật Giáo phát triển, như hai chân lý, bản chất vô thường, và duyên khởi tương sinh, những quan điểm triết lý này được phát triển trên căn bản của thực tiễn. Đấy là khoa học Phật Giáo. Rồi thì điều này có thể thay đổi tâm thức chúng ta, có thể giảm thiểu cảm xúc tàn phá, và cuối cùng có thể hoàn toàn tiêu trừ hoàn toàn những cảm xúc tàn phá. Đấy là niết bàn, giải thoát, hay cứu độ.

 Nên trên căn bản của khoa học, triết lý Phật Giáo, nhận thức Phật Giáo phát triển, sau đó theo nhận thức Phật Giáo rồi thì thực tập Phật Pháp. Do vậy, người Phật tử chân thật phải nên biết triết lý Phật Giáo, khoa học Phật Giáo. Bằng trái lại việc thực hành tôn giáo chỉ như tập tục, theo thói quen không có ý nghĩa gì nhiều.

dalailama-australia-3

Do thế, các anh chị em Phật tử của tôi, xin hãy học hỏi thêm nữa. Và việc thăm viếng chùa viện và ở trước Đức Phật phát lời cầu khẩn, trì niệm thì không đủ, chúng ta phải học hỏi những điều Đức Phật dạy bảo thật sự là gì. Và học hỏi theo căn bản lời dạy của Đức Phật được soạn thảo chi tiết bởi chư vị tổ sư Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân,... tất cả những đại sư của Na Lan Đà giảng giải kỹ lưỡng. Và nếu có thể, nghiên cứu Luận học Phật Giáo, luận lý học, của các tổ sư Trần Na, Pháp Xứng, Nguyệt Xứng, Liên Hoa Giới,... Trong Tạng ngữ, những luận điển của các ngài trên đã được dịch ra rất tiện dụng. Tôi được nghe nói là trong đại tạng Trung Hoa không có những dịch phẩm này, hoặc chỉ có một phần nào thôi, chưa được dịch ra hết. Hiện tại đã có một số hoạt động để chuyển dịch ra Hoa ngữ, đã được bắt đầu rồi. Cuối cùng, những luận điển này sẽ hiện diện bằng Hoa ngữ. Và sau đó sẽ được diễn dịch dễ dàng sang Việt ngữ, Hàn ngữ và Nhật ngữ. Rõ ràng chứ!

Xin hãy chú ý thêm trong việc học hỏi, nghiên cứu. Học hỏi, nghiên cứu! Rồi thì đức tin căn cứ trên tri thức trọn vẹn, đức tin ấy sẽ sâu sắc hơn nhiều, điều ấy là quan trọng!

Chân thành cảm ơn! Đấy là tất cả.

Tôi hy vọng sau này, chánh điện này không chỉ để cầu nguyện mà cũng là lớp học, nơi để học tập. Tôi hy vọng như thế. Nên lần sau đến đây, tôi hy vọng cũng thấy lớp học của quý vị. (Cười).

*

Nguyên tác: Dalai Lama visit Quang Minh Temple 2011
Ẩn Tâm Lộ ngày 7/6/2012
http://www.youtube.com/watch?v=HVIlt-b-1ZE&feature=related
http://www.youtube.com/watch?feature=endscreen&NR=1&v=2Es9-Y7-8MQ

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14242)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13283)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14240)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15589)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13280)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19438)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24691)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15796)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37883)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13506)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13133)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17211)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13234)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17436)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21732)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13285)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14455)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12907)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13713)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28683)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23462)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34476)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28923)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32237)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11345)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12048)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26353)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17436)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14556)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34603)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13158)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12302)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13439)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40577)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 27008)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14508)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13300)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13499)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12592)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13209)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12345)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11827)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12611)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17689)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12255)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12800)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18473)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14327)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 13029)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11345)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12220)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13526)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10897)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11132)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10338)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28979)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25363)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26908)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25836)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18733)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant