Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

05. Nghi lễ trao y Kathina của chư Tăng

29 Tháng Mười 201200:00(Xem: 6751)
05. Nghi lễ trao y Kathina của chư Tăng

LỄ DÂNG Y KATHINA

Tỳ khưu Hộ Pháp

NGHI LỄ TRAO Y KATHINA CỦA CHƯ TĂNG

Theo truyền thống của chư Tỳ khưu Tăng tại nước Thái Lan, tất cả chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ xong tại ngôi chùa ấy, và có thí chủđức tin trong sạch nơi Tam Bảo làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng. Chư Tỳ khưu Tăng đã thọ nhận y kathina của thí chủ xong, tất cả chư Tỳ khưu Tăng đều tụ họp tại sīmā. Trước tiên, chọn một vị Tỳ khưu biết đầy đủ 8 chi pháp xứng đáng thọ nhận tấm y kathina của chư Tăng, để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, đúng theo luật mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến chư Tỳ khưu Tăng.

Chư Tỳ khưu Tăng thỉnh 2 vị luật sư làm lễ trao y kathina của chư Tăng, nghi lễ theo tuần tự như sau:

1- Apalokanakamma: Việc Tường Trình

Vị Tỳ khưu luật sư thứ nhất tường trình y kathina giữa chư Tỳ khưu Tăng đang tụ họp tại sīmā như sau:

LS1: Kính bạch chư Tỳ khưu Tăng được rõ, y kathina cùng với các thứ vật dụng này của những thí chủ, người thay mặt là........................ [31] cùng với các bà con, bạn bè là những người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, mong tạo phước thiện ba-la-mật, gieo duyên lành để mong chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát khỏi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Cho nên những thí chủ ấy đã cùng nhau làm lễ dâng y kathina cùng với các thứ vật dụng này đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt trong 3 tháng mùa mưa tại ..............(tên chỗ an cư nhập hạ)

Y Kathina này đã phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch, ví như từ trên hư không rơi xuống giữa chư Tỳ khưu Tăng, không phải dành riêng cho một vị Tỳ khưu nào cả.

Đức Phật cho phép chư Tỳ khưu Tăng chọn một vị Tỳ khưu biết đầy đủ 8 chi pháp, để xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng. Chọn lựa đặc biệt ưu tiên cho vị Tỳ khưu nào có y rách, y cũ hoặc bậc Đại trưởng lão cao hạ nhất, là bậc có giới đức trong sạch, có hiểu biết đầy đủ 8 chi pháp để xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.

Vậy bây giờ tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng nhận xét thấy vị Tỳ khưu nào xứng đáng, kính xin quý Ngài cho phép dâng tấm y kathina của chư Tăng này đến vị Tỳ khưu ấy.

2- Giới Thiệu Vị Tỳ khưu Thọ Y Kathina:

LS2: Kính bạch chư Tỳ khưu Tăng được rõ: Con xét thấy vị Đại đức Tissa[32] là bậc xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng. Nếu vị Tỳ khưu nào không chấp thuận, xin phát biểu lên giữa chư Tăng. (ngừng một lát)

Nếu chư Tỳ khưu Tăng đều chấp thuận, kính xin quý Ngài nói lên lời hoan hỷ: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

(Sau khi chư Tỳ khưu Tăng đã chấp thuận bằng lời “sādhu” vị Tỳ khưu luật sư thứ nhất nói tiếp).

LS1: Kính bạch chư Tỳ khưu Tăng được rõ: Chư Tỳ khưu Tăng đã chấp thuận dâng y kathina đến Đại đức “Tissa”, để làm lễ thọ y kathina, không phải bằng lời apalokanakamma, mà phải bằng cách hành Tăng sự Ñattidutiyakammavācā đúng theo luật của Đức Phật đã ban hành, chúng con xin phép hành Tăng sự bây giờ.

Hành Tăng Sự Trao Y Kathina

Ví dụ: Vị Tỳ khưu được chọn thọ y kathina có đặt tên là Đại đức Tissa, thì pháp hành tăng sự sẽ tụng như sau:

- Ñatti:

Suṇātu me Bhante Saṃgho, idaṃ Saṃghassa kathinacīvaraṃ[33] uppannaṃ. Yadi Saṃghassa pattakallaṃ, Saṃgho imaṃ kathinacīvaraṃ Tissassa” bhikkhuno dadeyya kathinaṃ attharituṃ. Esā ñatti.

- Kammavācā:

Suṇātu me Bhante Saṃgho, idaṃ Saṃghassa kathinacīvarạm uppannaṃ, saṃgho imaṃ kathinacīvaraṃ “Tissassa” bhikkhuno deti kathinaṃ attharituṃ.

Yassāyasmato khamati, imassa kathinacīvarassa “Tissassa” bhikkhuno dānaṃ kathinaṃ attharituṃ. So tuṇhassa, yassa nakkhamati so bhāseyya.

Dinnaṃ idaṃ Saṃghena kathinacīvaraṃ “Tissassa” bhikkhuno kathinaṃ attharituṃ. Khamati saṃghassa, tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayami.

(Kathinatthāra kammavācā niṭṭhitā).

Ý nghĩa:

Kính bạch chư Đại đức Tăng, kính xin chư Tăng nghe rõ lời tuyên ngôn của con. Y kathina của chư Tăng đã được phát sinh, nếu việc hành Tăng sự hợp thời đối với chư Tăng, xin chư Tăng dâng y kathina này đến Tỳ khưu “Tissa”, để làm lễ thọ y kathina. Đó là lời tuyên ngôn. Kính bạch quý Ngài đượcrõ.

Kính bạch chư Đại đức Tăng, kính xin chư Tăng nghe lời thành sự ngôn của con. Y kathina của chư Tăng đã phát sinh, chư Tăng dâng y kathina này đến Tỳ khưu “Tissa”, để làm lễ thọ y kathina.

Lễ dâng y kathina của chư Tăng đến cho Tỳ khưu “Tissa” để làm lễ thọ y kathina, vị Tỳ khưu nào hài lòng với việc này, xin hãy ngồi im lặng, vị nào không hài lòng, xin phát biểu lên giữa chư Tăng.

Chư Tăng đã dâng y kathina này đến Tỳ khưu, “Tissa” để làm lễ thọ y kathina, chư Tăng đều hài lòng chấp nhận, vì vậy, nên ngồi im lặng. Con xin ghi nhận trạng thái hài lòng bằng cách im lặng ấy.

(Hành tăng sự thọ y kathina xong).

Sau khi tụng xong Ñattidutiyakammavācā, vị Tỳ khưu luật sư thay mặt chư Tăng dâng tấm y kathina đến vị Đại đức Tissa.

 Nhận tấm y kathina xong, vị Đại đức Tissa sẽ làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.

Nghi Thức Làm Lễ Thọ Y Kathina

Nếu có Tam y: tấm y saṃghāṭi, tấm y uttarāsaṅga, tấm y antaravāsaka, thì vị Tỳ khưu chỉ chọn 1 tấm y trong 3 tấm y ấy mà thôi, để làm lễ thọ y kathina.

1- Nếu chọn tấm y saṃghāṭi (tấm y 2 lớp) để làm lễ thọ y kathina, thì nghi thức làm lễ thọ y kathina theo tuần tự như sau:

1. 1- Làm dấu tấm y saṃghāṭi: làm dấu : Kappabinduṃ karomi, làm dấu vòng tròn “O” bằng con mắt con công bằng mực màu đen, hoặc màu xanh đậm, hoặc màu xám đậm ở bên góc chéo tấm y saṃghāṭi.

1. 2- Xả tấm y saṃghāṭi cũ của mình.

“Imaṃ saṃghāṭiṃ paccuddharāmi”.
(Tôi xin xả tấm y saṃghāṭi
cũ này).

1. 3- Nguyện tấm y saṃghāṭi mới của chư Tăng.

“Imaṃ saṃghāṭiṃ adhiṭṭhāmi”.
(Tôi xin nguyện tấm y saṃghāṭi mới này).

1. 4- Làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y saṃghāṭi.

“Imāya saṃghāṭiyā kathinaṃ attharāmi”.
(Tôi xin làm lễ thọ y kathina với tấm y saṃghāṭi này)

(Lễ thọ y kathina bằng tấm y saṃghāṭi xong).

2- Nếu chọn tấm y uttarāsaṅga (y vai trái) để làm lễ thọ y kathina, thì nghi thức làm lễ thọ y kathina theo tuần tự như sau:

2. 1- Làm dấu tấm y uttarāsaṅga: làm dấu: kappabinduṃ karomi, làm dấu vòng tròn “O” bằng con mắt con công bằng mực màu đen, hoặc màu xanh đậm, hoặc màu xám đậm ở bên góc chéo tấm y uttarāsaṅga.

2. 2- Xả tấm y uttarāsaṅga cũ của mình.

“Imaṃ uttarāsaṅgaṃ paccuddharāmi”.
(Tôi xin xả tấm y
uttarāsaṅga cũ này).

2. 3- Nguyện tấm y uttarāsaṅga mới của chư Tăng.

“Imaṃ uttarāsaṅgaṃ adhiṭṭhāmi”.
(Tôi xin nguyện tấm y uttarāsaṅga mới này).

2. 4- Làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y uttarāsaṅga.

“Iminā uttarāsaṅgena kathinaṃ attharāmi”.
(Tôi xin làm lễ thọ y kathina với tấm y uttarāsaṅga này).

(Lễ thọ y kathina với tấm y uttarāsaṅga xong)

3- Nếu chọn tấm y antaravāsaka (y nội) để làm lễ thọ y kathina, thì nghi thức làm lễ thọ y kathina theo tuần tự như sau:

3. 1- Làm dấu tấm y antaravāsaka: làm dấu: Kappabinduṃ karomi, làm dấu vòng tròn “O” bằng con mắt con công bằng mực màu đen, hoặc màu xanh đậm, hoặc màu xám đậm ở bên góc chéo tấm y antaravāsaka.

3. 2- Xả tấm y antaravāsaka cũ của mình.

“Imaṃ antaravāsakaṃ paccuddharāmi”.
(Tôi xin xả tấm y
antaravāsaka cũ này).

3. 3- Nguyện tấm y antaravāsaka mới của chư Tăng.

“Imaṃ antaravāsakaṃ adhiṭṭhāmi”.
(Tôi xin nguyện tấm y antaravāsaka mới này).

3. 4- Làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y antaravāsaka.

“Iminā antaravāsakena kathinaṃ attharāmi”.
(Tôi xin làm lễ thọ y kathina
với tấm y antaravāsaka này).

(Lễ thọ y kathina với tấm antaravāsaka xong)

Nghi Lễ Anumodanā (hoan hỷ)

Sau khi đã thọ y kathina của chư Tăng xong, vị Đại đức Tissa mặc y chừa bên vai phải, ngồi chồm hổm ở giữa chư Tỳ khưu Tăng, chắp tay thỉnh mời chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng rằng:

Atthataṃ Āvuso (Bhante) Saṃghassa kathinaṃ dhammiko kathinatthāro anumodatha.

Thưa quý pháp hữu, lễ thọ y kathina của chư Tăng đã xong, lễ thọ y kathina hợp pháp rồi, xin quý vị đồng thanh nói lên lời hoan hỷ.

Thành phần chư Tỳ khưu đồng hoan hỷ

Theo Chú giải Luật tạng, bộ Mahāvagga dạy rằng:

Những Tỳ khưu có quyền nói lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng và được hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina như sau:

- Tỳ khưu an cư suốt 3 tháng hạ trước và làm lễ pavāraṇā.

- Sadi an cư nhập hạ suốt 3 tháng hạ trước đủ 20 tuổi, được làm lễ thọ Tỳ khưu trong khi nhập hạ, vị tân Tỳ khưu được làm lễ pavāraṇā cùng với chư Tăng, được kể một hạ thứ nhất, có quyền nói lời hoan hỷ lễ thọ y kathina cùng với chư Tỳ khưu Tăng và được hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina.

Tất cả chư Tỳ khưu đồng thanh nói lên lời hoan hỷ như sau:

- Atthataṃ Bhante (Āvuso) Saṃghassa kathinaṃ, dhammiko kathinatthāro anumodāma.

- Kính bạch Đại đức, lễ thọ y kathina của chư Tăng đã xong, lễ thọ y kathina hợp pháp rồi, chúng con xin đồng thanh nói lên lời hoan hỷ.

(Hoàn mãn xong nghi thức thọ y kathina của chư Tăng)

Thành phần Tỳ khưu không được hoan hỷ

- Tỳ khưu an cư 3 tháng hạ trước, kể từ ngày 16 tháng 6, nhưng bị đứt hạ.

- Tỳ khưu an cư 3 tháng hạ sau, kể từ ngày 16 tháng 7 đến 16 tháng 10.

- Tỳ khưu an cư suốt 3 tháng hạ trước, ở chùa khác đến tham dự lễ thọ y kathina.

- Tỳ khưu không nhập hạ.

Tất cả những Tỳ khưu trên không có quyền nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, và cũng không được hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina.

Tất cả Sadi an cư suốt 3 tháng hạ với chư Tỳ khưu, không có quyền hành Tăng sự pavāraṇā, không làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, cũng không hành lễ nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, nhưng tất cả vị Sadi được phép hưởng phần quả báu phát sinh trong lễ thọ y kathina của chư Tăng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21228)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12287)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11977)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12863)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26737)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13119)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27130)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32953)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31761)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32653)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13078)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12216)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17594)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18816)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12625)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11822)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13181)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12300)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12551)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11710)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 12052)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10676)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10976)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28423)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11235)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11447)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13656)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11110)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11512)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10974)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11252)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26447)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12456)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14961)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11141)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20433)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12439)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11556)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10845)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 24032)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11933)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12391)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12918)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11128)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38818)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10623)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12286)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17803)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25184)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10612)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10840)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12126)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11418)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11674)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14803)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21524)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9985)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11333)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27492)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11244)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant