Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

29. Đức Tăng Suy Đồi

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 6970)
29. Đức Tăng Suy Đồi

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển I:
Tam Bảo

CHƯƠNG I: BA NGÔI CAO CẢ (TIYAGGA)


ĐỨC TĂNG SUY ĐỒI

Sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, trải qua thời gian lâu dài về sau, pháp thành Phật giáo dần bị mai một, bị suy đồi; pháp hành Phật giáo cũng dần dần bị mai một, bị suy đồi; pháp học Phật giáo cũng dần dần bị mai một, bị suy đồi. Cho nên, trải qua thời gian lâu dài về sau, Đức Tăng cũng dần dần bị mai một, bị suy đồi.

Theo lịch sử Phật giáo Theravāda, kỳ kết tập Tam TạngChú giải Pāḷi lần thứ tư tại đảo quốc Srilankā, Phật lịch 450 năm sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, chư Tỳ-khưu Tăng và chư Tỳ-khưu ni Tăng vẫn còn rất đông. Đến khoảng Phật lịch 500 năm, Tỳ-khưu ni không còn nữa; còn chư Tỳ-khưu Tăng phần đông trên các nước Myanmar, nước Thái Lan, nước Srilankā, nước Lào, nước Campuchia, Phật giáo Nguyên thủy Theravāda tại Việt Nam v.v...

Theo thời gian lâu dài về sau, chư Tỳ-khưu càng ngày càng kém đức tin nơi Tam Bảo, kém trí tuệ hiểu biết trong Phật giáo; đó là nguyên nhân làm cho pháp thành Phật giáo bị mai một, bị suy đồi; pháp hành Phật giáo bị mai một, bị suy đồi; và pháp học Phật giáo bị mai một, bị suy đồi dần dần. Mặc dù Tạng Vi Diệu PhápTạng Kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn, chỉ còn Tạng Luật, thì Phật giáo vẫn chưa bị mai một, chưa bị suy đồi. Đến khi Tạng Luật bắt đầu bị mai một, bị suy đồi dần dần, mà chư Tỳ-khưu Tăng vẫn còn hành tăng sự (Saṃghakamma) trong những ngày giới uposathakamma hằng tháng, và hành tăng sự lễ thọ Tỳ-khưu v.v... thì Đức Tăng vẫn chưa bị mai một, chưa bị suy đồi.

Theo quá trình diễn tiến của thời gian, chư Tỳ-khưu càng ngày càng giảm dần đức tin nơi Tam Bảo, cho nên có số Tỳ-khưu không tôn trọng tất cả mọi điều giới luậtĐức Phật đã chế định và ban hành đến chư Tỳ-khưu; số Tỳ-khưu ấy không nghiêm chỉnh giữ gìn đầy đủ mọi điều giới của Tỳ-khưu , bởi coi thường các giới nhẹ (lahuka āpatti). Số Tỳ-khưu ây, phạm giới ác khẩu (dubbhāsita āpatti), phạm giới tác ác (dukkaṭa āpatti) rồi dần dần phạm giới pācittiya (pācittiya āpatti), cho đến phạm giới trọng (thullaccaya āpatti). Những giới điều này thuộc về giới nhẹ, bởi vì khi vị Tỳ-khưu nào đã phạm giới này, vị Tỳ-khưu ấy có thể sám hối với một vị Tỳ-khưu khác được. Sau khi đã sám hối xong, vị Tỳ-khưu ấy có giới trong sạch trở lại.

Theo tuần tự thời gian lâu dài về sau, Tỳ-khưu phạm giới nặng (garuka āpatti). Giới nặng có hai giới: Giới Saṃghādisesa (giới Tăng tàn) và giới Pārājika(giới bất cộng trụ).

- Nếu vị Tỳ-khưu nào đã phạm giới Saṃghādisesa (Saṃghādisesa āpatti), thì vị Tỳ-khưu ấy tuy vẫn còn phạm hạnh Tỳ-khưu, nhưng vị Tỳ-khưu ấy đã phạm giới mà không thể sám hối được. Bởi vì giới Saṃghādisesa này thuộc về giới nặng, nên vị Tỳ-khưu ấy phải chịu hành phạt theo luật mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến chư Tỳ-khưu.

- Nếu vị Tỳ-khưu nào phạm giới pārājika (Pārājika āpatti), thì vị Tỳ-khưu ấy mất phạm hạnh Tỳ-khưu, phải hoàn tục trở lại người cận sự nam tại gia, hoặc có thể trở xuống bậc thấp, thành vị Sadi suốt đời, không bao giờ thọ Tỳ-khưu được nữa.

Về sau, Tạng Luật bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn, chư Tỳ-khưu phàm nhân không còn hiểu biết về giới luật, về cách hành tăng sự... Chư Tỳ-khưu ấy có những hành vi cử chỉ, nói năng biểu hiện ra nơi thân và khẩu không làm cho người khác phát sinh đức tin. Chư Tỳ-khưu ấy không hiểu biết về thiện pháp, không hành thiện pháp, mà hành ác pháp do bởi phiền não, tham ái; tạo nên nghiệp ác do thân, khẩu ý; tự làm khổ mình, làm khổ người khác, làm khổ chúng sinh khác.

Trong thời vị lai, chư Tỳ-khưu chỉ còn là cái tên gọi “Bhikkhu: Tỳ-khưu”, mà không có giới của Tỳ-khưu, mặc y nhuộm không đúng màu, theo Đức Phật đã chế định. Trải qua thời gian sau nữa, may y vai trái mặc choàng phần trên thân, y nội mặc che phần dưới thân từ lỗ rún trở xuống, không còn cắt ra thành 5 hoặc 7 điều như luật Đức Phật đã chế định, chỉ may tấm vải dính lại để mặc.

Khi chư Tỳ-khưu đi khất thực, không ôm bát đàng hoàng, mà chỉ cầm cái bát bằng bàn tay, giống như nhóm ngoại đạo hành khất xin ăn.

Tiếp theo thời gian sau nữa, chư Tỳ-khưu ấy nghĩ rằng: “Lợi íchchúng ta mặc tấm vải y lớn này, ta chỉ cần cắt một mảnh y nhỏ quấn vào cổ, hoặc cột vào cổ tay, hoặc quấn trên đầu để thuận tiện làm công việc nuôi sống gia đình”.

Tuy vậy, Đức Phật dạy Đại đức Ānanda rằng:

- Này Ānanda, trong thời vị lai sẽ có hạng người được gọi là Tỳ-khưu “Bhikkhu” còn mảnh y nhỏ quấn cổ, hoặc cột ở cổ tay là người phạm giới, hành ác pháp; nhưng thí chủđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có tác ý thiện tâm làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ-khưu Tăng, dầu trong số Tỳ-khưu không có giới ấy.

Này Ānanda, sự làm phước thiện bố thí sự cúng dường đến chư Tỳ-khưu Tăng trong thời vị lai ấy. Như Lai dạy rằng:

Phước thiện bố thí ấy vẫn có quả báu vô lượng không sao kể xiết được”.

Như Lai không hề dạy trực tiếp hoặc gián tiếp rằng:

Thí chủ làm phước thiện bố thí đến cá nhân thọ thí, được quả báu nhiều hơn làm phước bố thí đến chư Tỳ-khưu Tăng thọ thí”.

Qua đoạn kinh trên Đức Phật dạy những thí chủ làm phước bố thí cúng dường, với tác ý thiện tâm nghĩ đến Tăng Bảo, đó là chư Thánh Tăng phước điền cao thượng của chúng sinh, không đâu sánh được. Bởi vì, chư Thánh Tăng là bậc cao thượng, có giới đức trong sạch thanh tịnh. Thật ra, chỉ có cá nhân Tỳ-khưu phạm giới (bhikkhu dussīla) mà thôi.

Tiếp theo thời gian về sau nữa, chư Tỳ-khưu ấy nghĩ rằng: “Lợi ích gì mảnh y nhỏ quấn vào cổ, hoặc cột vào cổ tay này”. Chư Tỳ-khưu ấy cởi vất bỏ mảnh y nhỏ kia, mặc bộ đồ màu trắng “setavatthaṃ” của người tại gia.

Khi ấy, hình tướng của Tỳ-khưu hoàn toàn bị suy đồi (liṅga antanadhāna).

Phật giáo cả nội dung lẫn hình thức hoàn toàn không còn trên cõi người này nữa, do không có Tỳ-khưu Thanh Văn giữ gìn duy trì Phật giáo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6106)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9983)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7087)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7333)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6990)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9351)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5834)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7100)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6521)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6098)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7160)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14380)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20429)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9470)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7866)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8184)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7449)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9373)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7443)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7478)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7665)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9470)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8778)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7369)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7957)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7011)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7667)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9857)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8281)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8833)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7668)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8825)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8628)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 7999)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9011)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9428)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8730)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8880)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7225)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9183)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8596)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7889)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9618)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10165)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8760)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8369)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7623)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9328)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7477)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15349)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7297)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8478)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12233)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7302)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11493)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8310)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8040)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7903)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8917)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7407)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant