Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Năng lượng tâm

05 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 24721)
Năng lượng tâm

NĂNG LƯỢNG TÂM 

Thành Văn

 

 Nếu có một tôn giáo có thể đáp ứng với những yêu cầu của khoa học hiện đại thì đấy sẽ là Đạo Phật (Albert Einstein).

 Điều đó khá rõ ràng, khi chúng ta thấy Đức Phật Ngài không hề tự nhận mình là một thần linh xuống thế để ban phúc giáng họa cho ai cả. Ngài xuất thân cũng chỉ là một chúng sinh bình thường như chúng ta. Nhưng nhờ công phu tu tập nhiều đời, nhiều kiếp, đến đời sống sau cùng Ngài đi nốt con đường Ngài đã chứng ngộ chân lý, khám phá ra tất cả những bí mật của vũ trụtìm ra được con đường vượt thoát khỏi sự ràng buộc đó.

 Chúng sanh đi theo con đường của Ngài cũng nhìn nhận Đức Phật trước hết là một vị Thầy (Bổn Sư, Thế tôn), người đã chỉ cho chúng ta con đường tu tập để giải thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi, nguồn gốc của mọi khổ đau. Những gì Đức Phật đã khám phá ra không chỉ là khoa học, nó bao trùm tất cả mọi quy luật của vũ trụ; nghĩa là bao trùm cả khoa học ngày nay. Bởi khoa học ngày nay chỉ khảo sát và ứng dụng được những thứ thuộc đời sống vật lý. Đó là thứ khoa học về vật chất. Khi đụng đến các vấn đề về tinh thần khoa học phải dừng chân và chuyển giao các vấn đề ấy sang một lãnh vực khác; đó là triết họctôn giáo.

 Nếu Đức Phật không phải là thần linh, Ngài là một nhà khoa học, hơn thế nữa Ngài là một nhà “siêu khoa học”.

 Newton phát kiến ra luật vạn vật hấp dẫn, ông mở đầu cho những nghiên cứu sau này của nhân loại để vượt khỏi sức hút của trái đất bay vào không gian. Archimede khám phá ra lực đẩy của chất lỏng, để cho các nhà khoa học đi sau chế tạo ra tàu ngầm chạy dưới nước như cá.

 Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc của thế giới vật chất để hiện hữu mà không cần phải tựa trên một thực thể vật lý.

 Từ 25 thế kỷ trước, bằng trí huệ siêu thế, Đức Phật đã nhìn thấy “trong một cốc nước có vô số chúng sanh”. Ngày nay khoa học cho thấy rõ đó là những vi sinh vật mắt thường không trông thấy được, nhưng nếu đặt dưới kính hiển vi điện tử những sinh vật ấy sẽ hiện nguyên hình cho chúng ta quan sát.

 Trong một cá nhân, ngoài phần vật chất bao gồm sự duyên hợp của tứ đại: đất, nước, gió, lửa, còn có một phần phi vật chất, hay còn gọi là tinh thần bao gồm tâm và trí. Phần trí con người có thể phần nào kiểm soát được. Phần tâm vẫn còn là một cái gì bí mậtcon người chỉ mới có khái niệm lờ mờ và không kiểm soát được.

 Trong phần trình bày sau đây, người viết xin khai triển một khái niệm thuộc về tâm; đó là năng lượng tâm. Nói đến năng lượng là nói đến một nguồn sức mạnh.

 Nó có thể được sản xuất ra, tàng trữ và sử dụng, như năng lượng điện chẳng hạn.

 Xin lần lượt đưa ra những thí dụ của đời thường, để từ đó suy nghĩ và thử đưa ra những giải thích chứng minh sự hiện hữu của một thứ năng lượng xuất phát từ tâm; tức là thuộc lãnh vực vô hình tàng ẩn trong con người. Năng lượng ấy nếu biết định rõ, thu góp, tích trữ có thể sử dụng để đưa con người vượt qua những giới hạn của khoa học vật lý.

 

 Thí dụ 1./ Trong bộ phim Out of Africa có cảnh người thợ săn và bạn gái của anh ta phải đối diện với một con sư tử. Con sư tử khi phát hiện ra hai người đứng gần chiếc xe của họ, nó lừng lững bước tới và chuẩn bị chạy tới tấn công cô gái. Cô gái kinh hoảng thối lui, toan bỏ chạy. Anh thợ săn mắt vẫn theo dõi con mãnh thú, tay lăm lăm khẩu súng sẵn sàng nhả đạn để cứu bạn, đồng thời anh la to trấn an cô gái: “Đừng sợ, đừng chạy, hãy đứng lại, nhìn thẳng vào mắt nó. Nó sẽ không làm gì cô đâu.”

 Cô gái mặc dù đang hoảng sợ nhưng vẫn còn đủ bình tĩnh làm theo lời bạn trai. Quả nhiên, con sư tử đang hung hăng chuẩn bị nhào tới cô gái, nó bỗng chùn chân lại. Sau đó nó chậm rãi quay đầu bỏ đi.

 Lý giải sự kiện: Người thợ săn, nhờ có kinh nghiệm, có khẩu súng trong tay, anh ta hoàn toàn bình tĩnh, không hề hoảng sợ trước con mãnh thú. Trong não bộ anh không có tín hiệu phát ra truyền đến não bộ con vật. Trước mặt nó, có vẻ như người thợ săn không có mặt. Nó nhìn anh nhưng không thấy anh, hay thấy nhưng không bị kích động bởi bản năng tấn công.

 Ngược lại, với cô gái, vì thiếu hiểu biết về loài sư tử, trong tay lại không có vũ khí, cô rất sợ hãi. Lập tức não bộ cô phát ra một tín hiệu dưới dạng sóng vô tuyến. Con vật bắt được làn sóng đó và nó “thấy” cô, đồng thời nỗi sợ hãi của cô kích thích bản năng tấn công của nó nên nó nhắm cô xông tới.

 Khi nghe lời anh thợ săn, cô gái bình tĩnh lại, tín hiệu từ não bộ cô ngưng phát ra. Con vật bị ngắt tín hiệu, nó chợt “không thấy” cô nữa, đồng thời cũng không bị kích thích, nên lặng lẽ bỏ đi.

 Trong trường hợp này, chính năng lượng tâm từ cả hai con người đã truyền đến con vật theo hai cách. Năng lượng này có dưới dạng sóng điện từ, nếu có máy móc có thể ghi nhận được.

 

 Thí dụ 2./ Trong một chuyến đi chơi xuyên bang bằng xe đến Yellowstone đoàn chúng tôi gồm 5-6 người lớn và mấy đứa trẻ con. Ở một địa điểm nghỉ ven đường nơi có nhiều con sóc từ những bụi cây gần đó chúng chạy đến gần những du khách để được cho ăn những hột đậu.

 Tôi nhận thấy những con sóc tỏ ra e dè sợ sệt những người đàn ông, không dám đến gần ăn những hạt đậu hay bắp rải ra cho chúng. Đối với đàn bà, chúng tỏ vẻ hơi dạn dĩ hơn, nhưng vẫn e dè. Riêng với những đứa trẻ nhỏ, đám sóc tỏ ra thân thiện thấy rõ. Chẳng những chúng không né sợ mà có con còn chạy đến gần sát nhặt ngay cả những hạt đậu còn nằm trên bàn tay những đứa trẻ.

 Khi tôi đưa thắc mắc này ra hỏi thử những người cùng đi xem họ nghĩ sao. Có người bảo “Tại nó thấy mấy ông to lớn quá nên sợ, còn trẻ con nhỏ người nó ít sợ hơn.” Tôi không đồng ý. Về nhà suy nghĩ thêm, tôi cho rằng vấn đề không phải do thân người lớn nhỏ. Đối với những con sóc, ngay cả một đứa trẻ sáu bảy tuổi cũng đều to lớn hơn nó nhiều, và đều có thể làm hại nó y như người lớn vậy.

 Nhưng nó sợ người này hay không sợ người kia là do bới tín hiệu từ tâm phát ra ở mỗi người. Đối với người lớn, do tâm đấu tranh, thù hằn, sát hại đã huân tập nhiều năm trong tàng thức nên trong tâm họ tàng trữ những năng lượng hủy diệt nhiều hơn những đứa trẻ. Những năng lượng ấy tự phát tán ra không theo sự kiểm soát của con người. Thú vật thường thân thiện quấn quýt trẻ nhỏ hơn người lớn là vì vậy.

 Dù ngay lúc đó không ai có tư tưởng bắt hay làm hại những con sóc, nhưng chúng vẫn nhận được từ người lớn những năng lượng tâm có dấu ấn ác trong quá khứ, nên chúng sợ. Tự dưng chúng sợ thế thôi. Chứ không phải vì người lớn to con hơn trẻ nhỏ.

 Người ta thấy có những người khi ở gần họ ta thấy an ổn. Với những kẻ khác, ta có cảm giác bất an đôi khi ghê sợ khi đến gần họ. Ta gọi đó là linh tính. Linh tính ấy phát sinh do sự chuyển tải một năng lượng từ tâm người này sang tâm người khác.

 

 Thí dụ 3./ Tôi có thói quen đi dạo trong công viên gần nhà, ở đó có nhiều người giắt chó đi dạo. Thường những con chó càng nhỏ càng có thái độ hung hăng, sủa những người đi ngược chiều. Thậm chí có con còn xấn đến chỗ người đi ngược chiều với vẻ đe dọa. Tôi chợt nhớ lại bài học về tâm, nên trong đầu nảy ra ý nghĩ, rải tình thương đến chú chó vừa nói thầm trong bụng: con chó hiền quá, trông nó thật dễ thương. Quả nhiên con chó nhỏ đang hung hăng sủa, nó im bặt, lặng lẽ quay lại bước gần bên chủ.

 

 4./ Một cô gái đứng chờ xe buýt. Sau lưng cô cách mấy thước có một chàng thanh niên cũng đang đứng chờ như cô. Cô gái khá xinh đẹp. Chàng trai đã để ý thấy. Chàng dán đôi mắt nhìn chăm chăm vào sau gáy cô gái và trong đầu chàng phát ra tín hiệu yêu thích. Chỉ một lát sau không lâu cô gái quay lại và bắt gặp tia nhìn ấy vì cô cảm thấy nhột nhạt ở gáy như có một bàn tay đang sờ vào. Đó chính là do một năng lượng đã truyền từ não bộ chàng trai sang não bộ cô gái. Nếu cô gái cũng có cảm tình với chàng, họ lập tức phải lòng nhau. Trường hợp này ta gọi là cú sét ái tình (coup de foudre).

 

 5./ Câu chuyện về vị thiền sư và hai chậu hoa. Một vị thiền sư tu thiền. Ông dùng phương pháp “rải tâm từ”. Muốn xác định năng lực của tâm từ bi, ông tự thân làm thí nghiệm như sau: nơi hậu liêu chùa, thiền sư trồng hai chậu hoa cùng một loại. Khi mới đem về trồng hai chậu hoa tươi tốt ngang nhau.

 Tuy nhiên sau đó, hàng ngày chăm sóc hoa, ông dụng tâm vào việc chăm sóc hai chậu hoa hai cách khác nhau. Một chậu, trong khi vừa chăm sóc, bón xới, tưới nước, tỉa cành ông vừa rải tâm từ, đầu nghĩ, miệng thì thầm: “Ôi, cây hoa thật là đẹp. Ta rất thương con, ta chăm sóc con và mong muốn con sẽ xanh tươi, trổ hoa tươi thắm.” Ngược lại, đối với cây hoa trong chậu kia, trong khi chăm sóc, ông khởi tâm dằn hắt, chê bai hoa xấu xí, cằn cỗi, không đẹp chút nào và vì thế ông mắng thầm nó là ông không thích nó.

 Sau một thời gian không lâu, hai chậu hoa dù được chăm bón giống nhau, nhưng cây hoa được yêu thương khen ngợi phát triển tốt tươi ra hoa thường xuyên hơn. Còn cây kia, phát triển èo uột, sắc lá bạc, ít hoa và thường mau héo rụng.

 Khi đã nhìn thấy kết quả, thiền sư khởi tâm sám hối, thương xót cây hoa bị ruồng rẫy. Ông đổi thái độ, chăm sóc nó với tâm từ ái giống như cây kia. Chỉ ít lâu sau, cây hoa “xấu” kia dần dần thay đổi sắc diện, trở nên tươi đẹp giống như cây kia.

 Điều này biểu hiện rất rõ nơi con người. Một cô gái sau khi lấy chồng, nếu được chồng và gia đình bên chồng yêu thương chiều chuộng, cô sống trong hạnh phúc, nhan sắc người ấy sẽ trở nên rực rỡ mà khi về nhà cha mẹ đẻ ai cũng dễ dàng nhận ra. Ngược lại, nếu phải sống trong sự đè nén, bực dọc khó chịu bên nhà chồng và gặp phải người chồng không yêu thương chiều chuộng, cô ta sẽ xuống sắc mà dù có điểm trang, khi về nhà ai cũng nhận thấy vẻ dáng không hạnh phúc của cô.

 Trong khoa thôi miên, hành giả đã rèn luyện sự tập trung tư tưởng, chú tâm vào một vật, rồi bằng ý nghĩ và sự tưởng tượng để điều khiển đối tượng. Khi thành công, người thôi miên có thể dùng tâm tác động lên tâm người khác, làm cho người ta ngủ hay sai khiến người khác làm theo lệnh mình.

 Đôi khi thế giới xuất hiện một số người có khả năng đặc biệt. Có người có thể nhìn chăm chú vào một cái muỗng, khiến nó cong lại. Có người nhìn và làm bể một chiếc ly thủy tinh hay làm một vật bốc cháy. Đó là những công năng đặc biệt phi vật chấtxuất phát từ tâm (ý nghĩ). Đó là thứ năng lượng tâm khoa học chưa biết rõ hay kiểm soát được.

 Ngày nay, trong quân đội của các nước tiên tiến như Mỹ, Nga, Trung cộng… người ta đang có tham vọng nghiên cứu môn thần giao cách cảm (télépathy) để áp dụng trong ngành truyển tin; liên lạc giữa các vị chỉ huy cao cấp và các điệp viên với trung tâm điều khiển. Người ta dùng phương pháp “tâm truyền tâm” để liên lạc với nhau, không qua máy móc phát sóng vô tuyến khiến đối phương không thể rà bắt được tần số. Tham vọng đó còn lâu mới có thể thành hiện thực, nhưng không phải là bất khả. Cách đây vài thế kỷ, cách xa nhau hàng vạn dăm mà vẫn nghe được tiếng, thấy được hình nhau là chuyện chỉ có trong cổ tích. Bay lượn trên trời như chim chỉ có Tôn Hành Giả và các vị tiên làm được. Ngày nay đằng vân giá võ là chuyện thường, ai cũng làm được.

 Trong lãnh vực khoa học viễn tưởng, người ta đã nghĩ đến một thứ vận tốc tức thời (instant speed) chế ra các phi thuyền chạy bằng năng lượng tâm để thám hiểm vũ trụ. Đối với các thiên thể ở cách trái đất hàng trăm ngàn năm ánh sáng nếu chỉ bay bằng các phi thuyền dùng năng lượng khí lỏng như hiện nay, con người sẽ chỉ loanh quanh trong thái dương hệ là cùng. Cho dù có bay bằng năng lượng nguyên tử cũng vậy thôi.

 Bằng các phương tiện vật chất con người sẽ bị giới hạn bởi rất nhiều định luật vật lý của vũ trụ. Nhưng bằng năng lượng tâm con người sẽ trở nên tự tại trong không gianthời gian. Các vị Phật đã chứng ngộ bằng con đường tâm linh đã đạt được điều đó.

 Với khoa học, con người hiện nay đã đạt được một số thần thông: thiên lý nhãn, thiên lý nhĩ, đằng vân và đang nuôi tham vọng bất tử qua các kỹ thuật sinh học, nhân giống vô tính v.v…

 Tuy nhiên ngày nào nhân loại còn phải bám víu vào khoa học vật lý ngày ấy con người vẫn phải bị chi phốihạn chế bởi các định luật vật lý. Chỉ qua hai con đường: tâm linh hoặc kết hợp được sức mạnh tâm linhvật chất con người mới có thể vượt qua được các giới hạn hiện nay.

 Phải chăng các giống người ngoài hành tinh (alien) họ chính là những “người trời” sau khi đã tiến hóa rất xa về khoa học, nhưng họ vẫn còn ở tầng trời hữu sắc. Đối với các tầng trời vô sắc, còn phải vượt qua một ngưỡng nữa để tâm có thể tồn tại như một năng lượng độc lập mà không cần phải tựa trên một thân xác vật lý.

 Hiển nhiên đấy là một tương lai còn rất xa của nhân loại. Tuy nhiên biết đâu đấy vẫn có thể là sự thật, một sự thật không thể nghĩ bàn, ít ra là với trí thông minh hiện nay của con người?

 

 THÀNH VĂN

 Oct., 2012 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12286)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11971)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12863)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26736)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13117)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27119)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32951)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31760)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32651)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13077)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12213)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17592)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18813)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12623)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11822)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13181)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12298)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12551)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11709)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 12052)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10675)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10975)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28419)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11234)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11446)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13656)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11107)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11503)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10974)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11250)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26446)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12448)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14959)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11139)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20431)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12436)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11556)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10844)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 24030)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11933)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12391)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12917)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11126)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38816)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10619)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12285)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17800)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25180)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10609)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10839)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12124)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11414)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11674)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14801)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21523)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9983)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11333)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27491)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11243)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11914)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant