Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật và các cõi siêu hình

05 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 12026)
Đức Phật và các cõi siêu hình


ĐỨC PHẬT VÀ CÁC CÕI SIÊU HÌNH
Toàn Không

 

ducphatvacoisieuhinh-toankhongI)- ĐỨC PHẬTTHIÊN THẦN:

 Một thời, Đức Phật giáo hóa tại Na Đà, xứ Kiền Trà, bấy giờ, Tôn giả A Nan Đà ngồi một mình trong tịnh thất im lặng suy nghĩ: “Thật là kỳ đặc, đức Thế Tôn thụ ký cho từng người làm cho họ được nhiều lợi ích, như đại Thần Già Già La sau khi chết, đức Thế Tôn ghi nhận vị ấy dứt được năm hạ phần kết sử, liền sinh về cõi Trời, khi hết tuổi thọ cõi Trời sẽ nhập Niết Bàn, không phải trở lại cõi này nữa.

 Tỳ Già Đà Lợi Châu, Già Lâu, Tẩu Bà Đầu v.v..., các đại Thần này sau khi qua đời, đức Thế Tôn đều thọ ký cho họ đã đoạn trừ năm hạ phần kết sử được sinh lên cõi Trời, và sẽ diệt độ tại đó, không còn tái sinh lại đây nữa.

 Lại có 50 người khác qua đời, đức Thế Tôn thụ ký là họ sạch hết ba hạ phần kết sử, chứng quả thứ hai là Tư Đà Hàm, chỉ còn tái sinh lại đây một lần là dứt sạch gốc khổ. Đồng thời cũng có 50 vị khác qua đời, đức Thế Tôn thọ ký họ chứng quả thứ nhất Tu Đà Hoàn, không còn bị đọa vào ác đạo, chỉ còn tái sinh vào cõi này 7 lần nữa, và cuối cùng sạch hết gốc khổ.

 Hơn nữa, những đệ tử của Thế Tôn khi qua đời, Thế Tôn đều thụ ký cho họ rằng: người này sinh chỗ này, người kia sinh chỗ kia. Người Ương Già, người Bạt Kỳ, người Câu Tát La v.v..., 16 nước đều có người qua đời, Thế Tôn đều thọ ký cho họ cả.

 Trái lại, người nước Ma Kiệt, đều là dòng dõi Vua Chúa, đã có những người qua đời không được Ngài thụ ký”.

 Nghĩ rồi, Tôn giả A Nan Đà đứng lên đi đến chỗ Phật, cúi lễ rồi thưa:

- Vừa rồi, con ở trong tịnh thất, im lặng suy nghĩ: “Thật là kỳ đặc, đức Thế Tôn thụ ký cho từng người, trong 16 nước đều có người qua đời đều được Thế Tôn thọ ký, làm lợi ích cho họ, chỉ có nước Ma Kiệt, cũng có người qua đời nhưng chưa được Thế Tôn thụ ký”, cúi mong Thế Tôn thọ ký cho họ, để làm lợi ích cho tất cả Trời Người.

 Lại nữa Vua Tần Bà Sa La, Bình Sa Vương, là Cư sĩ, hết lòng tin Phật, có nhiều sự cúng dàng Tam Bảo, nhưng chưa được Thế Tôn thọ ký, cúi xin Thế Tôn thụ ký cho ông ta để làm lợi ích cho chúng sinh, thưa xong, Tôn giả A Nan Đà vái lạy rồi lui đi.

 Lúc ấy, đức Phật vào thành Na Già khất thực, xong Ngài đến khu rừng ngồi dưới gốc cây quán chiếu nơi thọ sinh của người nước Ma Kiệt đã qua đời. Khi đó có một vị Thần đứng cách không xa đức Phật, tự xưng tên mình và nói:

- Tôi tên là Xà Ni Sa, tôi là Xà Ni Sa, tôi thấy được dấu đạo.

 Đức Phật hỏi:

- Ông có việc gì mà tự xưng là Xà Ni Sa, Ông có pháp gì mà nói là thấy dấu đạo?

 Xà Ni Sa đáp:

- Không có việc gì khác, tôi vốn là một vị Vua ở trong giáo pháp của Như Lai, làm người Cư sĩ, nhất tâm niệm Phật khi qua đời, nên được sinh làm Thái tử của Tỳ Sa Môn Thiên Vương, được quả thứ nhất Tu Đà Hoàn, không còn đọa vào đường dữ nữa, và trong 7 đời liên tiếp sẽ thường gọi là Xà Ni Sa.

 Lúc đó, đức Phật rời khu rừng ấy đến khu Na Đà xứ Kiền Trà, Ngài bảo một Tỳ kheo:

- Thầy đi gọi Tỳ Kheo A Nan đến gặp Ta.

 Tỳ Kheo ấy thưa:

- Vâng.

 Khi Tôn giả A Nan Đà đến vái lễ xong thưa:

- Hàng ngày con thấy Thế Tôn tịch tịnh, bây giờ Ngài nghĩ gì mà dung nhan Thế Tôn vui tươi khác lạ? Xin Thế Tôn cho con được biết.

 Đức Phật bảo:

- Sáng nay, Thầy vì người qua đời nước Ma Kiệt, đến chỗ Ta cầu thỉnh thọ ký, rồi ra đi. Ta đi khất thực xong đến rừng ngồi dưới gốc cây quán sát chỗ thụ sanh của người Ma Kiệt sau khi qua đời. Lúc ấy, cách Ta không xa, có một vị Thần, tự xưng tên rằng: “Tôi tên là Xà Ni Sa, tôi là Xà Ni Sa”. A Nan, Thầy đã từng nghe tên Xà Ni Sa chưa?

 Tôn giả A Nan Đà thưa:

- Con chưa từng nghe, nay con nghe tên ấy, con sinh lòng sợ hãi, lông tóc dựng ngược. Thưa đức Thế Tôn, vị Thần này chắc là có công đức lớn, nên có tên là Xà Ni Sa?

 Đức Phật bảo:

- Rồi Thần ấy nói: “Tôi thấy được dấu đạo”. Trước hết Ta hỏi Thần ấy: “Ông do pháp gì mà tự xưng thấy dấu đạo?” Xà Ni Sa đáp: “Tôi chỉ vì trước kia là Vua người, là đệ tử và có lòng tin Phật, chứng quả Tu Đà Hoàn, khi qua đời sinh vào làm con Tỳ Sa Môn Thiên Vương. Tôi không còn sinh vào cõi dữ nữa, chỉ sanh lại cõi Người 7 lần thì dứt hết gốc khổ. Trong 7 lần tái sinh đều có tên là Xà Ni Sa”

--- :: ---

 Bấy giờ, các vị Trời Đạo Lợi tụ tập ở một nơi, khi đó Tứ Thiên Vương đều ngồi theo hướng của mình như sau:

- Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương ngồi ở hướng Đông, quay mặt về hướng Tây, Vua Trời Đế Thích cõi Đạo Lợi ngồi trước mặt.

- Tỳ Lâu Nặc Thiên Vương ngồi ở hướng Nam, quay mặt về hướng Bắc, Vua Trời Đế Thích ngồi ở trước mặt.

- Tỳ Lâu Bác Xoa Thiên Vương ngồi ở hướng Tây, mặt hướng về phía Đông, Đế Thích ngồi ở trước mặt.

- Tỳ Sa Môn Thiên Vương ngồi ở hướng Bắc, mặt hướng về phía Nam, Đế Thích ngồi ở trước mặt.

 Sau khi Bốn Thiên Vương ngồi xong, tới phiên Xà Ni Sa và các đại Thiên Thần ngồi. Các vị này, trước kia đều theo Phật tu hành, giữ giới, nên khi qua đời được sinh đến cõi Trời Đạo Lợi, được hưởng năm thứ phúc báo là:

1- Sống lâu,

2- Đẹp đẽ,

3- Người Trời,

4- An lạc,

5- Uy đức.

 Khi ấy, chư Thiên Đạo Lợi đều hân hoan vui mừng và nói: “Chúng Thiên tăng lên, chúng Thần giảm xuống”.

 Bấy giờ Vua Trời Đạo Lợi biết chư Thiêntâm niệm vui mừng, liền nói kệ:

Vô số Thiên Đạo Lợi,

Cùng Đế Thích vui chơi,

Kính lễ đức Như Lai,

Đấng Pháp Vương tối thượng.

Chư Thiên được phúc báo,

Thụ, sắc, danh, lạc, oai,

Theo Phật tu phạm hạnh,

Nên sinh về cõi này.

 Lúc đó Thiên Thần Xà Ni Sa nói: “Sở dĩ chư Thiên Đạo Lợi tập hợp tại Thiện Pháp Đường, là để cùng nhau thảo luận, suy tư, quán sát về những giáo lệnh ấy. Sau đó mới dạy cho Tứ Thiên Vương, bốn Thiên Vương nhận lãnh xong rồi theo hướng của mình mà ngồi.

 Nhưng ngay khi đó có ánh sáng lạ chiếu cả bốn phương.

 Chư Thiên Đạo Lợi thấy ánh sáng lạ đều kinh ngạc và nói: “Nay có ánh sáng khác thường này, chắc là có điềm lạ gì đây? Ngay cả chư Thiênoai Thần, cũng cảm thấy sợ.

 Lúc ấy, Vua Trời Đại Phạm hóa thành Đồng tử, đầu có 5 búi tóc, đứng trong hư không ở trên Thiên chúng, dung mạo tuyệt đẹp, vượt hẳn Thiên chúng cõi Đạo Lợi, thân màu sắc vàng tía, ánh sáng soi át hẳn ánh sáng chư Thiên.

 Chư Thiên Đạo Lợi thấy, lặng yên, không chào không đón; Phạm Đồng Tử từ từ hạ xuống đúng chỗ mà ngồi một cách vui vẻ, vị Đại Phạm Thiên ấy vừa ngồi xong, liền biến ra một Đồng Tử khác ngồi ngay ngắn bất động trong hư không trên chư Thiên và nói kệ:

Đấng Điều phục vô thượng,

Đem ánh sáng cho đời,

Giảng nói pháp nhiệm mầu,

Phạm hạnh không ai bằng,

Khiến chúng sinh thanh tịnh,

Sinh về trời Tịnh Diệu.

 Nay ta nói để quý vị biết điều này, các vị hãy lắng nghe: “Các vị Cư sĩ, đệ tử của Như lai ở nước Ma Kiệt qua đời, có người chứng quả vị thứ ba A Na Hàm, có người chứng quả vị thứ hai Tư Đà Hàm, có người chứng quả vị thứ nhất Tu đà Hoàn. Có người sinh đến cõi Trời Tha Hóa Tự Tại, hoặc có người sinh đến cõi Trời Hóa Tự Tại, có người sanh đến cõi Trời Đâu Suất, cõi Diệm Ma, cõi Đạo Lợi, Tứ Thiên Vương, hoặc có người sinh lại cõi Người vào dòng Vua Chúa (Sát Đế Lợi), Quý tộc (Bà La Môn), được năm dục tự nhiên.

 Rồi Phạm Đồng Tử nói kệ:

Bà tắc nước Ma Kiệt,

Những người đã mệnh chung,

Tám muôn bốn nghìn người,

Ta nghe họ đắc đạo,

Chứng quả Tu Đà Hoàn,

Không sinh vào cõi ác,

Đi trên đường chân chính,

Chứng đạo hay cứu tế,

Những hạng chúng sanh này,

Giữ gìn các công đức,

Trí tuệ, lìa ân ái,

Hổ thẹn, lìa vọng ngữ,

Ở giữa chư Thiên ấy,

Phạm Đồng nói như thế,

Họ được Tu Đà Hoàn,

Chư Thiên đều hoan hỷ.

 Tỳ Sa Môn Thiên Vương nghe bài kệ xong vui mừng nói:

- Đức Như Lai nói pháp chân thật, thật là kỳ diệu chưa từng có, ta vốn không biết Như Lai xuất hiệnthế gian nói như thế, đồng thời khiến cho Chư Thiên Đạo Lợi hoan hỷ.

 Lúc ấy Phạm Đồng Tử bảo Tỳ Sa Môn Thiên Vương:

- Đức Như Lai dùng sức phương tiện để nói về pháp thiện (lành) và bất thiện (ác) một cách đầy đủ, nhưng không có được pháp ấy (Chư Thiên không có pháp thiện ác); đồng thời Ngài nói pháp không tịch như có được pháp này (Chư Thiên có pháp này), đây là pháp vi diệu cũng như đề hồ (thức ăn bổ ích).

 

LỜI BÀN:

 Đọc đoạn Kinh trên, chúng ta nên tìm hiểu:

1)- Sạch hết ba hạ phần kết sử là gì?

 Kết là tụ lại, Sử là sai sử, ràng buộc, Kết sử là bị trói buộc. Sạch hết ba kết sử là người tu đã dứt hết ba thứ như sau:

1- Tham ái dục: Tham áitham muốn nhục dục, luyến ái sáu trần, dính mắc bởi “sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp”. Chúng là những cái mạnh nhất trói buộc con người vào vòng sinh tử. Muốn tận diệt chúng, phải nhận thức mối nguy hại của chúng, kiên trì quán sát mối nguy hại, kiểm soát sáu căn “mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý”. Đây là những con rắn độc giết hại tâm thanh tịnh.

2- Sân hận: Sân giận, hận thù, oán hờn, tật đố ganh ghét, hành giả phải quán sát để thấy rõ nguồn gốc xấu xa tệ hại của nó mà trừ bỏ xa lià nó. Đây là ngọn lửa dữ thiêu đốt con người, hành giả dùng tâm Từ Bi để đối trị, khi đã trừ bỏ xa lià được rồi, lòng sẽ nhẹ nhõm, dễ dàng tiến tới tâm định tĩnh vắng lặng.

3- Hôn trầm, thùy miên: Hôn trầm thùy miên là dã dượi, uể oải, không vui, ăn nhiều, ợ ngáp, lười biếng, muốn ngủ nghỉ, không muốn hành thiền, không muốn tinh tấn. Hành giả phải cố gắng ngăn chặn bằng cách suy nghĩ đến sinh tử vô thường đến lúc nào không biết, không còn kịp nữa; lại một kiếp trôi lăn không biết sẽ về đâu, nên phải cố gắng tỉnh thức, kiên trì.

 Người dứt tham ái dục, xa lìa hết sân giận và hết hôn trầm là sạch ba hạ phần kết sử, chứng quả thứ hai là Tư Đà Hàm, người này chỉ sinh lại cõi người một lần, rồi tu tiếp sẽ dứt hết khổ.

2)- Sạch hết năm hạ phần kết sử là gì? Là người đã dứt ba kết sử ở trên, còn dứt luôn hai kết sử sau đây:

4- Trạo hối, phóng dật: Là hối tiếc, có trạng thái buông xuôi, chao động của tâm khi đã làm những điều bất thiện, hành động ác ấy đưa đến sự lo âu hối tiếc đã để xảy ra việc bất thiện. Cũng có tình trạng lo âu khi việc thiện để qua mất không làm nên đưa tới buông thả, lại có đủ thứ khoái lạc ở đời, nên thường nhớ nghĩ không dứt được, đối trị trạo hối phóng dật bằng cách tự hứa hẹn sẽ không để tình trạng như thế xảy ra nữa. Quyết dứt bỏ xa lìa các điều lo âu và các điều vui thích ở đời, để đưa tâm trở lại an ổn trong việc hành thiền.

5- Nghi ngờ: Nghi ngờdo dự trong quá khứ, tương lai, và hiện tại, là nghi pháp hành trì, nghi Thiện tri thức giảng dạy, nghi chính mình không đủ khả năng. Khi nghi ngờ sẽ có tâm bất định làm cho việc hành trì bị trở ngại, hành giả phải chú tâm quán sát, tỉnh thức theo dõi, quán sát để ra khỏi sự bất định của nghi ngờ.

 Người dứt năm hạ phần kết sử, tức là chứng quả thứ ba A Na Hàm, sau khi qua đời sinh lên cõi Trời, rồi ở đó tiếp tục tu cho tới khi qua đời sẽ nhập Niết Bàn.

*****

 Một điểm chúng ta biết Vua Tần Bà Sa La, hiệu Bình Sa Vương, nước Ma Kiệt sau khi chết vì người con tàn ác muốn giết cha để đoạt ngôi, nhưng bị bắt quả tang, Vua cha đã không trừng trị, còn trao ngôi Vua cho. Thế mà khi lên ngôi lại ra lệnh giam cha trong ngục tối không cho ăn bỏ đói. Lại nữa, nếu không có người ngăn cản, còn giết luôn mẹ mình vì người mẹ lén mang thức ăn vào dâng Vua cha!

 Nhờ thần lực của đức Phật và sự tinh tấn hướng về Phật mà Vua chứng được quả Tu Đà Hoàn là quả thứ nhất, nhưng cái chết của Bình Sa Vương thật là thảm khốc do người con thấy lâu ngày rồi mà người cha chưa chết, nên ra lệnh cho người thợ cạo đến dùng dao sắc bén gọt gót chân, bôi dầu, muối rồi hơ trên lửa cho đến chết, thật là thê thảm! Khi Vua Tần Bà Sa La chết rồi được sinh làm con của Tỳ Sa Môn Thiên Vương là một trong Tứ Thiên Vương. Chúng ta tiếp tục xem Phạm Thiên Vương nói về Phật pháp:

 

II)- ĐẠI PHẠM VƯƠNG VÀ PHẬT PHÁP:

1)- Đại Phạm Thiên giảng về Phạm âm:

 Phạm Đồng tử nói kệ xong bảo Chư Thiên Đạo Lợi: “Âm thanh của Chư Thiên có năm thứ thanh tịnh, cho nên gọi là phạm âm (khuôn phép của âm thanh lời nói), Năm thứ ấy là gì?

1- Âm thanh chính trực, (đúng như thật, không dối trá).

2- Âm thanh hòa nhã, (êm dịu, không chói tai).

3- Âm thanh trong trẻo, (không lanh lảnh, cũng không quá trầm).

4- Âm thanh sâu xa đầy đủ, (ý nghĩa cao siêu).

5- Âm thanh cùng khắp, (chỗ nào cũng nghe thấy).

 Phải đầy đủ 5 đặc điểm này mới gọi là phạm âm.

2)- Đại Phạm Thiên giảng về Tứ Niệm Xứ:

 Rồi Đại Phạm Vương Đồng Tử lại bảo Chư Thiên:

- Các vị hãy lắng nghe, hãy suy nghĩ kỹ về vấn đề này, ta vì quý vị mà nói, Đức Như Lai chí chân khéo phân biệt và thuyết về Tứ Niệm Xứ. Bốn Niệm Xứ là gì? Đó là:

1- Quán Thân: Chuyên cần, chuyên chú không quên, để trừ tham lam buồn phiền, gồm:

- Quán thân trong thân: Sau khi quán thân xong, sẽ sinh Tha Thân Trí (biết rõ thân).

- Quán thân ngoài thân.

- Quán thân trong ngoài thân.

2- Quán Thụ (quán các cảm giác): Sau khi quán thọ sẽ sinh Tha Thụ Trí (biết rõ cảm thọ).

3- Quán Tâm (ý nghĩ tưởng nhớ): Sau khi quán Tâm sẽ sinh Tha Tâm Thông (biết rõ tâm mình, biết rõ tâm người khác).

4- Quán Pháp: (vạn vật): Sau khi quán Pháp xong sẽ sinh Tha Pháp Trí (biết rõ vạn vật như thật).

 Đó là Bốn Niệm Xứ, quý vị phải suy nghĩ ghi nhớ và thực hành.

3)- Đại Phạm Thiên giảng về Thất Định Cụ:

 Đại Phạm Đồng Tử giảng tiếp:

- Này chư Thiên, các vị hãy lắng nghe ta nói tiếp, Đức Như Lai khéo có thể phân biệt nói về Thất Định Cụ, Bảy Định Cụ là gì? Đó là:

1- Chính kiến (thấy đúng, thấy như thật),

2- Chính tri (suy nghĩ đúng, biết đúng),

3- Chính ngữ (nói đúng, không sai lệch),

4- Chính nghiệp (hành động chân chính),

5- Chính mệnh (làm nghề chân chính),

6- Chính tinh tấn (siêng năng cần mẫn),

7- Chính niệm (nhớ nghĩ điều chân chính).

 Quý vị nên ghi nhớ và thực hành kiên cố sẽ được giải thoát.

4)- Đại Phạm Thiên giảng về Tứ Thần Túc:

 Này Chư Thiên, lại nữa, Như Lai khéo có thể phân biệt nói về pháp Tứ Thần Túc (Bốn Như Ý Túc), Bốn Thần Túc là gì? Đó là:

1- Ý chi quyết tâm: Nhờ quyết tâm tu tậpdiệt trừ được tham ái dục, thành tựu sự tu tập Thần Túc.

2- Tinh tấn: Nhờ tinh tấn tu tậpdiệt trừ được hành nghiệp, thành tựu tu tập Thần Túc.

3- Nhất tâm nhất ý: Nhờ tu tập ý địnhdiệt trừ được hành nghiệp thành tựu tu tập Thần Túc.

4- Quán sát: Nhờ quán sát tư duydiệt trừ được hành nghiệp, thành tựu tu tập Thần Túc.

 Này Chư Thiên, các Sa Môn, Bà La Môn trong quá khứhiện tại dùng vô số phương tiện, hiện vô lượng Thần Túc, đều do Tứ Thần Túc phát khởi. Giả thử trong tương lai có ai dùng vô số phương tiện, hiện vô lượng Thần Túc cũng đều do Bốn Thần Túc này phát khởi.

 Nói xong, Đại Phạm Thiên Vương Đồng Tử liền biến thân mình thành thân Trời Đạo Lợi, ngồi cùng chư Thiên Đạo Lợi và bảo:

- Ông muốn thấy năng lực thần biến của Ta không?

- Vâng, muốn thấy.

- Ta cũng do Tứ Thần Túc, nên có thể biến hóa vô số kể.

 Lúc ấy, Chư Thiên Đạo lợi đều tự nghĩ: “Nay chỉ Phạm Đồng Tử ngồi ở chỗ ta nói lời nói ấy, nhưng khi Phạm Đồng Tử ở chỗ ta nói thì các hóa thân Phạm Đồng Tử ở chỗ khác cũng nói, khi một hóa thân im lặng thì hóa thân khác cũng im lặng.”

5)- Đại Phạm Thiên giảng con đường đến ngôi Chính Giác:

 Rồi Vua Trời Đại Phạm thu nhiếp Thần Túc ngồi vào chỗ của Vua Trời Đế Thích mà bảo chư Thiên:

- Ta nay sẽ nói, các vị hãy lắng nghe! Đức Như Lai chí chân đã tự sử dụng năng lực của Ngài để mở bày ba con đường hầu đến ngôi Chính Giác, ba con đường đó là:

1- Hoặc có chúng sinh thân cận tham ái dục, thực hành pháp bất thiện, chúng sanh ấy sau lại được thân cận Thiện Tri Thức (hiểu biết nhiều điều hay lẽ phải), được nghe lời chỉ bảo. Lúc đó, họ rời bỏ tham ái dục, lìa xa các điều ác, được tâm vui vẻ an nhiên tự tại. Lại ở trong trạng thái an nhiên tự tại ấy sinh đại hoan hỉ. Đây là con đường thứ nhất.

2- Hoặc có chúng sanh nhiều sân hận, không từ bỏ nghiệp ác về thân miệng ý. Nhưng về sau, chúng sinh ấy gặp được Thiện Tri Thức, được nghe lời hay lẽ phải, nên lìa bỏ những hành động ác về thân miệng ý. Vì bỏ những ác hành về thân miệng ý nên sinh tâm hoan hỉ, lại ở trong trạng thái an lạc sinh đại hoan hỉ. Đây là con đường thứ hai.

3- Hoặc có chúng sanh si mê không biết phân biệt thiện ác, không biết như thật về khổ (Khổ), không biết như thật về nguyên nhân gây ra khổ (Tập), không biết như thật cách diệt khổ (Diệt), không biết như thật con đường đạo phải theo (Đạo). Chúng sinh ấy, sau gặp được Thiện Tri Thức, được nghe lời dạy, nên hiểu được đâu là thiện, đâu là ác, hiểu biết như thật về khổ, tập, diệt, đạo. Khi hiểu rồi, chúng sinh ấy từ bỏ các điều bất thiện, tâm sinh hoan hỉ, lại ở trong trạng thái an lạc ấy mà phát sinh đại hoan hỉ, đó là, đức Như Lai mở bày con đường tắt thứ ba.

 Đại Phạm Thiên Vương Đồng Tử nói Phật pháp này, Tỳ Sa Môn Thiên Vương nói chính pháp này, Thiên Thần Xà Ni Sa ở trước Phật nói pháp này, Đức PhậtTôn giả A Nan Đà nói pháp này, Tôn giả A Nan Đà vì bốn chúngchúng sinh đời sau nên nói pháp này.

LỜI BÀN:

 Chúng ta thử phân tích sâu rộng một số điều Đại Phạm Thiên Vương dạy các vị Trời Đạo Lợi dưới đây:

1) - VỀ TỨ NIỆM XỨ: 

 Bốn Niệm Xứ là gì? Đó là:

1- Quán Thân: Chuyên cần, chuyên chú không quên, để trừ tham lam buồn phiền.

Thế nào là quán Thân?

 Là chú ý quán sát biết rõ cả cơ thể đang chuyển biến như thế nào. Tỉnh táo ghi nhận thấy rõ ràng từng bộ phận, mỗi cơ quan trong và ngoài của thân thể, và những diễn biến mỗi thứ của thân thể đang hoạt động ra sao.

- Quán thân trong thân là sao?

 Quán thân trong thân là quán những bộ phận trong con người mình như ruột, gan, phổi, óc v.v...

- Quán thân ngoài thân là sao?

 Quán thân ngoài thân là quán những pháp bên ngoài như tay chân, da, tóc, v.v..; cũng có nghĩa là quán những pháp bên ngoài thân như quán con chim, cái bàn, bông hồng v.v…

- Quán thân trong ngoài thân là sao?

 Quán thân trong ngoài thân như tương quan giữa tai trong và tai ngoài, tương quan giữa miệng lưỡi và dạ dày, tương quan giữa mũi và phổi v.v...; cũng có nghĩa là những gì tương đồng giữa mình và người.

 Quán thân tới nơi tới chốn sẽ đạt được Tha Thân Trí, nghĩa là thấy biết rõ thân thể mình, ví như có bệnh hay không, có bệnh ở chỗ nào v.v...

2- Quán Thụ.

Thế nào là quán Thụ?

 Quán thọ là quán sát cảm giác, biết rõ cảm giác của mình về một sự việc gì. Chú ý xem cái cảm giác ấy ra sao, nó vui sướng thích thú, khoái cảm đê mê, hay nó buồn khổ, bực bội khó chịu, dễ ghét không ưa, hay nó không vui không buồn v.v….

 Có ba loại Niệm thụ là: Thụ vui như trong lúc ngồi thiền cảm thấy thoải mái nên vui, thụ khó chịu như trong khi ngồi thiền có nhiều tiếng ồn ào, và thụ không khổ không vui như trong khi ngồi thiền có tiếng chim hót hay gió thổi lá xào xạc, đó là hoạt động bình thường không có cảm giác bực bội hoặc cảm giác thích thú v.v…

 Sau khi quán thọ đúng mức rồi sẽ đạt Tha Thụ Trí, nghĩa là biết rõ ràng các cảm thọ. Tỉ dụ khi đau tại chỗ nào biết rõ ràng là đau cơ quan nào, không cần phải chụp hình dò dẫm như các Bác Sĩ thường làm.

3- Quán Tâm

Thế nào là quán Tâm?

 Tâm là ý nghĩ, tư tưởng, Quán tâmquán sát chú ý biết ý nghĩ, tư tưởng khởi lên, gọi chung là vọng tưởng, như nhớ ngày xưa đi học, hay nghĩ đến tương lai v.v…

 Có muôn nghìn ý nghĩ, tư tưởng, vọng niệm, nhưng đại loại có thể chia ra làm ba loại:

- Vọng tưởng tốt lành, tức những điều suy nghĩ việc thiện như nghĩ đến việc giúp đỡ người, bố thí cho kẻ nghèo, cúng chùa v.v…

- Vọng tưởng dữ độc, tức những điều suy nghĩ việc ác như nói xấu người, thù hằn không đội trời chung, nghĩ đến việc lừa đảo, trộm cắp, tà dâm v.v…

- Vọng tưởng không thiện không ác, tức là nghĩ đến những việc không lợi hại, không thiện ác như nghĩ đến vẻ đẹp của một đóa hoa và sự tàn dần của hoa, nghĩ đến đám mây trôi và sự vô định của mây, nghĩ đến biển cả và sóng vỗ vô tận của nó v.v…

 Sau khi quán Tâm nhu nhuyễn rồi sẽ đạt Tha Tâm Trí, nghĩa là biết rõ tâm mình, biết rõ tâm người là thật thà hay dối trá, biết rõ người khác hiền lành hay ác dữ v.v...

4- Quán pháp

Thế nào là quán Pháp?

 Quán phápquán sát chú tâm để biết đối tượng của tâm, đối tượng của tâm là pháp, nếu không có pháp ta không thể thấy tâm, cũng như không có tâm ta không thể thấy pháp.

Có mấy loại quán Pháp: Có bốn loại:

- Năm Triền Cái: Là năm cái ngăn che làm cho mê mờ gồm có: Tham dục, sân hận, hôn trầm (mờ mịt u tối như ăn nhiều, ợ ngáp, yếu đuối, không vui, lười biếng), trạo cử (không yên, phóng dật), nghi hối (nghi ngờ, do dự, lưỡng lự).

- Năm Uẩn: Là năm thứ cấu tạo nên thân, gồm: “Sắc, thụ, tưởng, hành, thức”. Sắc là thân; Thụ, tưởng, hành, thức là tâm.

- Sáu căn: Là năm giác quan gồm “mắt, tai, mũi, lưỡi, thân”, và ý vô hình tướng; năm giác quan có năm đối tượng trần là “sắc, thanh, hương, vị, xúc”, và ý có đối tượng là “pháp”.

- Bảy giác chi: Là bảy phần biết gồm: “Niệm (nhớ, nghĩ, biết, chú ý, tỉnh thức v.v..), trạch pháp (chọn lựa), tinh tấn, hỷ, khinh an, định, và xả.

Cách quán Pháp như thế nào?

- Quán sát Năm Triền Cái là năm thứ hiện tượng ngăn che, như khi có ý muốn tham dục xuất hiện. Ta phải ý thức tỉnh táo quán sát biết nó xuất hiện và lià bỏ nó. Khi sân hận nổi lên ta phải chú ý biết sân hận nổi lên, nhìn kỹ nó, nó sẽ tự biến; khi mờ mịt tối tăm xuất hiện (hôn trầm xuất hiện), ta phải tỉnh táo, hôn trầm sẽ tự dứt; khi xao động không yên, ta chú ý xem, biết ngay nó là trạo cử, nó liền yên ổn; khi nghi ngờ điều gì, ta chú ý biết là đang nghi hối điều không đâu, nghi liền tự xả.

- Quán sát Năm Uẩn là những thứ tạo nên thân tâm: Sắc thân cấu tạo bởi “đất nước, gió, lửa” hợp lại; xương, tóc, móng, thịt do đất mà thành; hơi thở do khí gió mà nên; hơi ấm do lửa mà có; máu, nước tiểu, nước bọt làm thành bởi nước, quán sát như thế biết rõ ràng sắc chẳng phải là ta, sắc là của đất nước gió lửa, sắc chẳng phải là của ta, nên xả được cái thân dễ dàng.

 Tâm gồm tất cả thụ tưởng hành thức. Quán sát thụ là do cảm giác vui buồn không vui không buồn mà có, lìa cảm giác đâu còn có thụ nữa. Tưởng là nhớ nghĩ, là tri giác việc nọ việc kia, cái nọ cái kia, tưởng luôn biến đổi không ngừng; không nhớ nghĩ sẽ không có tưởng. Hành là hoạt độngtác ý, có mong muốn, không còn tác ý mong muốn sẽ không có hành; thức là sự nhận thức phân biệt khi căn tiếp xúc với trần, không có sự tiếp xúc căn trần thì không có thức.

 Tóm lại ta ghi nhận để biết tất cả những cấu tạo, hoạt động của thân tâm, do đó không còn dính mắc, dứt, xa lià, xả bỏ sẽ được thân khỏe tâm an.

- Quán sát Sáu Căn là “mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý”, và đối tượng của sáu căn là sáu trần “sắc thanh, hương, vị, xúc, pháp”.

- Mắt thấy hình sắc, ta không để bị lôi kéo hay ghét bỏ bởi hình sắc đẹp xấu.

- Tai nghe âm thanh, ta không để bị quyến rũ hay chê bai bởi âm thanh hay dở.

- Mũi ngửi mùi, ta không để bị đam mê hay khó chịu bởi mùi thơm tho hay hôi thối.

- Lưỡi nếm vị, ta không để bị vị dính mắc hay từ chối bởi ngon hay không ngon.

- Thân tiếp xúc, ta không để bị tùy thuộccảm giác trơn nhám, êm dịu v.v…

- Ý tiếp nhận pháp trần, ta không để bị phân biệt điên đảo.

 Như vậy ta được yên ổn: Sau khi quán pháp nhu nhuyễn tới mức rồi sẽ đạt Tha Pháp Trí, tức là biết rõ hết vạn vật vũ trụ thế gian.

2) – VỀ THẤT ĐỊNH CỤ:

 Chúng ta thấy Bảy Định Cụ này đức Phật dạy chư Thiên giống như Ngài dạy loài Người về Tám Chính Đạo, chỉ thiếu có Chính Định, có lẽ đối với chư Thiên không cần đến, nên Ngài không nói tới.

3) - VỀ TỨ THẦN TÚC:

Tứ Thần Túc là gì?

 Tứ Thần Túc là Bốn Thần Túc, còn gọi là Bốn Như Ý Túc là bốn điều được như ý muốn, bốn cách làm cho thiền định được kết quả mĩ mãn đầy đủ, là bốn nẻo đường dẫn tới thần thông; khi được định đầy đủ mỹ mãn rồi, tức là ở trong chính định, đã ở trong chính định sẽ thành tựu thần thông. Để giúp cho người tu hành tiến tới đạo quả, Phật đã chế ra “Bốn Thần Túc”, mà người tu hành cần phải học và hành khi thiền định để đi đến giải thoát, khi đạt được tới đích, sự thù thắng do nơi định mà thành tựu.

  Có bốn loại như ý túc chúng ta sẽ phân tích dưới đây:

1- Ý chí quyết tâm mong muốn:

 Là ý chí mạnh mẽ, quyết tâm thực hành, mong mỏi đạt mục đích tối thượng, nó giống như chí thệ nguyện, quyết tử, luôn luôn nhớ nghĩ trong lòng, không lúc nào xao lãng quên, luôn luôn để hết tâm tư vào việc mình đang theo đuổi, đang tu hành. Việc này cũng như mèo rình chuột chỉ một bề ngó vào hang chuột, không nhòm ngó chỗ nào khác. Người hành thiền cũng vậy, quyết tâm, nhất chí, mong mỏi, chú ý, không suy nghĩ chuyện gì khác ngoài việc đang làm đang thiền, các việc khác đều quên hết thảy, có tiếng động, giọng ca đâu đó cũng không nghe, có bóng người (đẹp) qua ngay trước mặt cũng không thấỵ.

2- Tinh tấn:

 Tinh tấntăng tiến dũng mãnh, chuyên cần siêng năng chăm chỉ không lười nghỉ, không thoái lui, không bỏ cuộc. Khi tinh tấn thì cần mẫn theo đuổi liên tục cho tới khi đạt mục đích mới thôi. Người tinh tấn luôn luôn có nghị lực mạnh mẽ, dẻo dai bền bỉ. Cũng ví như gà chim ấp trứng luôn luôn nằm tại ổ để cho trứng được ấm, đủ điều kiện cho trứng nở thành con, nếu gà hay chim ấp trứng chốc chốc lại bỏ ổ đi kiếm ăn, để cho trứng nguội lạnh, tất trứng không thể nở thành con được, lúc ấy trứng bị ung thối; người tu hành cũng vậy, phải tinh cần hành trì không ngưng, mới có triển vọng đạt tới đích.

3- Nhất tâm nhất ý:

 Tất cả chỉ chú tâm vào một vấn đề đang tu, nhất tâm chú ý vào chủ đề, nhất ý để tâm vào một việc; không ôm đồm nhiều việc, không suy nghĩ hết việc này tới chuyện khác; không cho tư tưởng khác khởi lên, không cho tưởng nhớ điều nào khác, nghĩa là không cho các suy nghĩ vọng tưởng xen vào, chỉ chú tâm vào một việc thiền định mà thôi, tại sao? Vì khi suy nghĩ tưởng nhớ điều này việc nọ thì tâm bị tán loạn, sẽ không thể vào định được; khi tâm lặng tức là những vọng tưởng đều không có không còn, chỉ còn có nhất tâm, cái một tâm này là tâm thiền về một vấn đề, khi được một tâm rồi việc vào định sẽ dễ dàng nên việc.

4- Quán sát: Khi đã vào định được, ở trong định hành giả dùng trí tuệ sáng suốt để quán sát các pháp. Do định sinh trí huệ, dùng trí huệ này quán sát các pháp sẽ thấy biết như thật, quán sát vũ trụ vạn vật đúng như nó là, không sai sót mảy may. Khi đã quán sát đúng chân thật vạn vật, như thế là hết Vô minh được giải thoát.

 Bài Kinh trên chứng tỏ rằng Phật Pháp không chỉ đang lưu hành tại cõi Người mà cũng đang lưu hành trên một số cõi Trời nữa, những bài Kinh đức Phật dạy ở cõi Người, Ngài cũng dạy cho Chư Thiên, tùy theo sự cần thiết hay không cần thiết mà Ngài thêm bớt, như chúng ta đã thấy trong Kinh này.

 Sáu cõi Trời Dục giới chỉ có hai cõi Đâu Suất và Đạo Lợi có Phật Pháp thôi, còn 18 cõi Sắc giới thì hầu như đều có Phật Pháp, cõi Phạm Thiên tương ưng với Sơ Thiền thì chắc chắnPhật Pháp như trong Kinh này chúng ta đã biết. Còn các cõi khác cao hơn tương ưng với Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, đều là những vị đã tu hành sinh lên, thiết nghĩ, các vị này sinh tới các cõi đó tiếp tục tu để tiến tới giải thoát vậy.

Toàn Không

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14266)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13292)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14257)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15595)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13283)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19452)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24708)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15804)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37900)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13532)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13141)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17244)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13240)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17446)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21746)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13291)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14468)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12917)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13724)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28695)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23478)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34509)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28981)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32285)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11385)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12091)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26372)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17455)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14601)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34653)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13191)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12346)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13461)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40612)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 27026)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14525)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13317)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13525)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12623)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13219)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12376)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11860)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12656)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17725)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12295)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12831)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18512)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14358)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 13070)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11387)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12254)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13531)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10908)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11159)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10357)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 29010)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25383)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26925)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25854)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18747)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant