Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tại sao là giả, là như huyễn

10 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 11530)
Tại sao là giả, là như huyễn

TẠI SAO LÀ GIẢ, LÀ NHƯ HUYỄN

Nguyễn Thế Đăng

cotloicoibode-hoangphongKhông thật, giả, ảo ảnh, như huyễn, như mộng… là một chủ đề quan trọng hàng đầu của Phật giáo, đó cũng là chủ đề quan trọng hàng đầu của con người trước cuộc đời của chính mình và thế giới mình sống.

Trước hết chúng ta nhìn lại sự giới hạn của các giác quan. Ở đây chúng ta chỉ nói về những màu sắc của sự vật mà chúng ta đang thấy.

Màu sắc là tri giác chủ quan thấy bằng mắt mà một sinh vật có được từ một hay nhiều tần số sóng ánh sáng, với một hay nhiều biên độ nào đó. Định nghĩa này rút từ Wikipedia. Màu sắc của sự vật là do sự phản chiếu ánh sáng từ vật ấy. Nếu không có ánh sáng chúng ta hoàn toàn không thấy gì. Ánh sáng mặt trời đã được khí quyển lọc rồi đi đến sự vật. Vật ấy hấp thu một số ánh sáng màu. Chẳng hạn chúng ta thấy lá màu lục, vì lá đã hấp thu các sóng ánh sáng màu đỏ và màu xanh. Bông hoa đỏ vì đã hấp thu các sóng ánh sáng màu xanh và màu lục. Vật màu đen thì hấp thu ánh sáng nhiều hơn, nên nóng hơn vật màu trắng.

Màu đỏ của hoa chỉ là màu bị hắt ra, phản chiếu ra, trong khi những màu khác được hoa hấp thu rồi. Màu đỏ không phải là màu thực sự của hoa.

Vẫn lấy thí dụ hoa đỏ. Các sóng ánh sáng màu đỏ này đến mắt, vào các tế bào hình nón và hình que trong mắt. Chính các tế bào hình nón làm cho chúng ta thấy được màu sắc của thế giới chúng ta. Tế bào hình nón có ba loại tạo ra ba màu căn bản của chúng ta là xanh, đỏ và lục. Số lượng và khả năng tiếp nhận quang tử (photon) của tế bào hình nón là có giới hạn, vì thế có những trường hợp mắt ta không thấy được, như tia hồng ngoại, tia tử ngoại. Loài chó chỉ thấy hai màu đen trắng, ong thì có thể nhìn ra tia cực tím (tử ngoại).

Đến đây mới chỉ là sự tiếp xúc giữa sóng ánh sáng với các tế bào của mắt, phải có những quang sắc tố tiếp nhận kích thích của ánh sáng để sinh ra các biến đổi hóa học. Biến đổi hóa học phải đến một lượng nào đó đủ lớn để tạo thành sự dẫn truyền qua dây thần kinh đưa về não. Chính ở đây màu đỏ mới hiện ra với chúng ta. Nói cách khác, các giác quan và não đã diễn dịch thông tin được tạo bằng các phản ứng sinh hóa, điện từ này thành màu đỏ.

Bông hoa làm bằng những nguyên tử, và nguyên tử thì không có màu sắc nào cả. Cũng vậy, mùi hương chỉ là những nguyên tử, mà những nguyên tử thì không có mùi nào cả. Mùi hương chỉ là kết quả của sự xúc chạm của các nguyên tử với mũi và hệ thần kinh của chúng ta diễn dịch ra thành mùi hương, chứ các nguyên tử làm gì có mùi hương.

Một ví dụ khác, cái bàn tôi đang ngồi viết. Với một kính hiển vi điện tử thì cái bàn hầu như trống không, vì khoảng không giữa nhân nguyên tử và các hạt bao quanh thì quá lớn, và khoảng cách giữa các nguyên tử cũng quá lớn so với các hạt ‘vật chất’ tạo thành nguyên tử. Cái bàn tiện dụng cho cuộc sống chúng ta như một con người. Chúng ta có thể để sách, đèn, ly nước trên đó. Nhưng với những hạt nhẹ, như neutrino, thì chúng xuyên qua dễ dàng. Nghĩa là cái bàn là trống không với chúng.

Nói chung màu sắc, âm thanh, hương, vị, cảm giác xúc chạm… đều là những quá trình tri giác do hệ thống giác quaný thức tạo thành từ những quá trình lượng tử. Chúng chỉ có thực với hệ thống của chúng ta, chúng chỉ có ý nghĩa từ sự diễn dịch của hệ thống chúng ta. Thế giới như chúng ta thấy là một quá trình diễn dịch, hay là một quá trình tưởng tượng (tưởng tượng, imaginer, có nghĩa là tạo ra hình ảnh).

Thế giới ấy hiện hữu một cách tương đối, quy ước đối với chúng ta. Chúng có giá trị một cách tương đối, quy ước để chúng ta sống thuận tiện trong cuộc đời cũng tương đốiquy ước của mình. Để sống cuộc đời làm người, chúng ta sử dụng những chân lý tương đốiquy ước này. Nhưng là sai lầmsai lầm cứ tiếp diễn khi chúng ta cho rằng chúng là chân lý tuyệt đốitối hậu. Chính sự sai lầm này sẽ đưa chúng ta càng lúc càng sâu vào một thế giới giả tạo, tương đốiquy ướcđạo Phật gọi là thế giới sanh tử.

Quá trình tri giác là một quá trình duyên sanh giữa sự vật (trần), hệ thống giác quan (căn) và thức của các giác quaný thức (thức). Duyên sanh hay nhân duyên sanh là sanh ra do những nguyên nhân (nhân) và những điều kiện, hoàn cảnh (duyên). Thiếu một nguyên nhân hay một điều kiện, kết quả tri giác được sẽ khác đi. Vì duyên sanh nên chúng hiện hữu một cách tương đốiquy ước. Chúng là chân lý tương đối, quy ước.

Chân lý tương đốiquy ước tiện lợi cho cuộc sống chúng ta. Đi trên đường mà các xe có màu sắc thì dễ thấy, dễ tránh. Nhưng cho chúng là có thật một cách tuyệt đối thì đây là vô minh hay sự không biết của chúng ta.

Ý thức gắn liền với thân thểgiác quan nên những giới hạn của giác quan cũng là những giới hạn của ý thức.

Chúng ta diễn dịch thế giới bằng một loại ngôn ngữ lấy thân thể làm điểm quy chiếu: trên dưới, trước sau, cao thấp, phải trái, ngọt bùi, cay đắng… Ngôn ngữ lại làm mạnh thêm cảm nhận.

Ý thức không thể nghĩ đến hai ba cái cùng một lúc: không thể nghĩ đến một đường phố Hà Nội cùng một lúc với một đường phố Sài Gòn. Không thể suy nghĩ một phương trình toán học cùng một lúc với một câu thơ. Như vậy ý thức không bao giờ có thể suy nghĩ được cái toàn thể, nghĩa là cùng lúc suy nghĩ tất cả mọi phương diện của một sự vật hay sự việc.

Chính vì không thể suy nghĩ cùng một lúc Hà Nội và Sài Gòn cho nên chính trong ý thức đã có khoảng hở giữa Hà Nội và Sài Gòn. Có khoảng cách nghĩa là có không gian giữa hai cái đó. Và như vậy ý thức đã tạo ra thời giankhông gian trong chính mình và cho chính mình.

Ý thức phải là sự phân biệt và tạo ra sự phân biệt.

Đã thế, ý thức còn bị in dấu, bị nhuộm màu bởi đủ thứ ký ức, thương ghét, ám ảnh, đố kỵ, hy vọng, hôn trầm, loạn động… Hầu hết ý thức người bình thường chúng ta là những phản xạ của những thứ ấy. Chúng ta phóng chiếu và diễn dịch thế giới và người khác theo những gì chúng ta có trong ý thức.

Một cuốn tiểu thuyết là những chữ, những câu. Ý thức chúng ta xâu nối lại những sự kiện để tạo thành một câu chuyện. Không có sự tưởng tượng của chúng ta sẽ không có câu chuyện. Đã thế, chúng ta còn đọc nó theo ý riêng của mình, đồng hóa với nhân vật nào đó hoặc những tính cách nhân vật nào đó. Thế giới là một cuốn sách để mở mà mỗi người tự đọc theo sự tưởng tượng và ý nghĩa riêng của mình chăng?

Ký ức là sự tưởng tượng trở lại những hình ảnh, âm thanh, mùi hương về một sự vật hay sự việc hiện giờ không hiện hữu nữa. Khi chúng ta nhớ lại thì tất cả đã không còn như cũ, tất cả đã đổi thay. Nhớ lại là sự tưởng tượng về cái không hiện hữu. Đó là một giấc mơ giữa ban ngày. Kinh Kim Cương nói: “Tâm quá khứ bất khả đắc…”.

Ngôn ngữ là cái cần phải có để sống với người khác. Nhưng nếu không tỉnh giác tính cách tương đốiquy ước của nó thì ngôn ngữ là một sự hỗ trợ mạnh mẽ cho sự mê lầm. Thương ai hay ghét ai, chúng ta đặt tên, dán nhãn cho những tính cách của người đó. Rồi chúng ta chỉ thấy, chỉ hiểu người đó qua cái nhãn hiệu ấy mà thôi. Dần dần chính tên của người ấy trở thành một ám ảnh, một tác động lên toàn bộ thân tâm của ta. Chúng ta vẫn thường nghe người ta nói, “mới nhắc tên nó đã thấy sôi máu rồi”.

Ngay cả cái tôi của mình. Cái tôi là một ký ức về tôi, nghĩa là một sự tưởng tượng trở lại một cái tôi với thân tâm không còn hiện hữu nữa. Thân thể con người trong một tháng thì các tế bào đều thay mới, đều đã “tái sanh”, lấy đâu có thân thể tôi tháng trước? Tâm thức con người được tạo bằng những ý tưởng vụt đến vụt đi, thay đổi từng ngày. Dòng sông hôm nay vẫn còn đó, nhưng nước sông hôm qua đã không còn. Ký ức về cái tôi còn được duy trì, làm cho sống động bằng ngôn ngữ, “tôi đã như thế này, tôi đã như thế kia”. Ngoài trí nhớngôn ngữ về một cái tôi không còn hiện hữu, một cái tôi thường còn thì không bao giờ có.

Descartes nói: “Tôi tư duy vậy tôi hiện hữu”. Đây là một kinh nghiệm bình thường chúng ta đều nhận thấy. Nhưng như thế thì khi tôi không tư duy vậy tôi không hiện hữu. Cái tôi mà đứt khúc, khi có khi không, cái tôi mà chết đi sống lại liên tục như vậy có thật là một cái tôi không? Hơn nữa, người thường chúng ta thường nghĩ lung tung, đó một chiến trường hỗn loạn của ý tưởng, cảm xúc, muốn và không muốn…, cái tôi như vậy chỉ là một sự xâu xé, phân tán, hỗn loạn, khổ đau.

Ý nghĩ cũng là một tưởng tượng về sự vật và sự việc chứ không phải chính là sự vật hay sự việc ấy. Nếu tưởng tượng gần đúng thì chúng ta xử lý vấn đề gần đúng, còn nếu tưởng tượng sai thì chúng ta sai lầm hoàn toàn. Ngay trong khoa học, trước khi làm thí nghiệm, chúng ta phải tưởng tượng ra điều mà chúng ta tìm kiếm trong thí nghiệm ấy. Đi mua một cuốn sách, chúng ta phải tưởng tượng cuốn sách ấy có ở nhà sách nào rồi mới đi. Cuộc sống của chúng ta sống là bằng tưởng tượng, dĩ nhiên tưởng tượng dựa trên lý luận của chúng ta, và tưởng tượng thì có thể gần đúng hoặc hoàn toànảo tưởng.

Trong cuộc đời này, tôi là một person, một người, một nhân cách, một nhân vật, một ngôi vị. Chữ person này có nguồn từ chữ persona của Hy Lạp, La -tinh, có nghĩa là cái mặt nạ. Ở đời này tôi đóng nhiều vai, trong gia đình tôi có thể là cha mẹ, là vợ chồng, là con cháu. Đến chỗ làm, nói với người cấp dưới tôi có cách nói khác, với người cấp trên tôi có cách nói khác. Vào siêu thị tôi đóng vai làm khách hàng, vào đại học tôi đóng vai một học trò. Ở cuộc đời này chúng ta có nhiều vai diễn, nhiều nhân vật, nghĩa là khoác nhiều mặt nạ.

Những mặt nạ ấy có tính chất quy ước, tạm thời. Nhưng tiếc thay ít khi chúng ta thấy ra điều đó và chúng ta cứ đồng hóa với những nhân vật đó, những mặt nạ đó. Chúng ta không đóng nữa, không diễn nữa. Chúng ta những nhân vật đó, những mặt nạ đó. Trước sau đạo Phật vẫn nói chúng ta vốn giải thoát, chẳng có gì để ràng buộc chúng ta cả. Vậy mà do không biết, vô minh, chúng ta cứ tự ràng buộc với những nhân vật, những mặt nạ để rồi sung sướng, khổ sở, để rồi vênh vang tự đắc hay buồn rầu tuyệt vọng. Chúng ta những chiếc mặt nạ đó cho nên chúng ta phải vui buồn theo chúng, sống và chết theo chúng.

Chúng ta còn có thể nói nhiều về nhiều thứ khác nữa. Những thứ chúng ta đã phác lược qua, tri giác giác quan, ý nghĩ, sự tưởng tượng, ký ức, sự đồng hóa với vai trò trong vở kịch đời, cái tôi và cái của tôi… cho chúng ta thấy một điều là chúng không thật một cách rốt ráo, chúng chỉ tạm thời để tiện dụng cho cuộc sống hàng ngày, chúng là những chân lý quy ước, tương đối, mà đạo Phật gọi là thế đế, tục đế. Điều sai lầm chí tử của chúng ta là cho rằng chúng có thật một cách tuyệt đối, chúng là những chân lý tuyệt đốitối hậu. Với sự lầm lẫn căn bản này, chúng ta bắt đầu bước vào một thế giới của thất vọng và khổ đau.

Cái tôi và cái của tôi là một chân lý quy ước, tương đối, nghĩa là chúng do rất nhiều nguyên nhân (nhân) và điều kiện (duyên) sanh ra. Thiếu một nguyên nhân, thiếu một điều kiện, có thêm một nguyên nhân, thêm một điều kiện, cái tôi sẽ là một cái tôi khác. Thiếu không khí trong vòng vài phút hay dư nước trong vòng vài phút thân tâm này sẽ chết. Thân tâm tôi là do duyên sanh, không lúc nào mà không là duyên sanh, nên nó không thường còn (vô thường), nó không có bản chất của tự nó (vô tự tánh, giả hợp), và không phải là một cái tôi thật (vô ngã). Bám chấp vào nó thì chỉ có bất toại nguyện, khổ đau (khổ).

Sự thật về mọi sự là vô thường, khổ, vô tự tánh, vô ngã, giả hợp, như mộng, như huyễn được đạo Phật gọi là chân lý tuyệt đối, tối hậu (chân đế). Chân lý tuyệt đối tối hậu vì không thể nào khác đi được dù trong bất kỳ điều kiện nào, hoàn cảnh nào. Đại thừa tóm tắt tất cả những chân lý tuyệt đối ấy vào một từ tánh Không. Dĩ nhiên tánh Không không chỉ gồm những ý nghĩa tiêu cực ‘không có’ (vô) mà còn là những ý nghĩa tích cực, thậm chí tích cực tuyệt đối, bởi vì tánh Không là tánh Như.

Sống bằng ý nghĩ, mà ý nghĩbản chất là tưởng tượng và phân biệt hư vọng, điều đó Duy thức tông gọi là thức biến. Những nhận xét về cái tôi và cái của tôi là giả, là như huyễn ở trên là một phần của điều Duy thức gọi là thức biến. Vì là thức biến cho nên là giả, là như huyễn.

Ở đây chúng ta cũng cần có một chánh kiến về giả và như huyễn. Khi nói giả, không thật, mộng huyễn thì không có nghĩa là không có gì hết, chẳng có gì giá trị hết. Không thậtkhông thật đối với cái giả, chứ không phải không thật đối với cái thật. Nếu không thấy mặt tích cực của giả và như huyễn, người ta rất dễ lọt vào hư vô chủ nghĩa (đoạn kiến), cho tất cả là hư vô trong khi vẫn bám chặt vào cuộc đời.

2. Những dẫn chứng ở trên, tuy vắn tắt, nhưng đưa chúng ta đến một sự thật: “Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn sự duy chỉ là thức”. Chúng ta cũng dễ suy ra một hệ luận là nếu tâm và thức thanh tịnh, thì ba cõi và muôn sự đều thanh tịnh. Đó là con đường Phật giáo tịnh hóa những mê lầm của tâm thức.

Chúng ta cần phân tích, quan sát để biết giả, như huyễn, như mộng. Chúng ta cần biết cuộc sống mà chúng ta đang sống đây chỉ là chân lý tương đối mà không gia công vào đó những phiền não tham sân si để sống đúng hơn, mà sống đúng hơn thì đỡ khổ hơn. Đạo Phật chỉ là thế: đưa người ta từ cái thấy nghĩ sai lầm để gây ra khổ đau không dứt đến cái thấy nghĩ không sai lầm để chấm dứt khổ đau vô cớ.

Thế giới, con người và cái tôi vì những nhân duyên tạm thời hòa hợp mà có, rồi được gán tên định danhtrở thành có thật một cách kiên cố, chấp chặt vào đó để khởi tham, giận, ghét, oán… đó là thế giới khổ đau mà chúng ta gọi là sanh tử. Để thoát khỏi cái thế giới phân mảnh, không thể hài hòa, đối nghịch và chiến tranh nhưng bản chấtkhông thật này, chúng ta phải nhìn ra thật tướng của nó là giả hợp, là do chúng ta tưởng tượng sai lầm (vọng tưởng) mà có ra, là do “mộng tưởng điên đảo” của chúng ta mà tạo thành. Để thoát khỏi sự việc cho rằng chân lý tương đốichân lý tuyệt đối, là sự thật rốt ráo, chúng ta phải nhìn thấy thế giới và cái tôi của chúng ta đúng như chúng là, nghĩa là vô tự tánhnhư huyễn.

Kinh Viên Giác nói: “Ví như ngọc báu Ma-ni thanh tịnh, tùy mỗi phương mà ứng hiện ra năm màu. Những người vô minh không biết thì khi nhìn ngọc Ma-ni kia, cho là ngọc Ma-ni có thật năm màu”.

Thấy vô tự tánhnhư huyễn như vậy là để gỡ bỏ những kiến chấp cho là có thật mà chúng ta gắn chặt vào sự vật. Vô tự tánh, giả, như huyễn là để đối trị với nhận thứctự tánh, có thật mà chúng ta vẫn khoác lên thế giới và chính chúng ta từng phút từng giây.

Quán sát giả, như huyễn là lột ra những lớp vọng tưởng của thức ô nhiễm phóng chiếu như lột một củ hành, một cây chuối, hết lớp này đến lớp nọ, để tận cùng chứng nghiệm thấy rõ ở trung tâm không có cái gì cả. Đó là vô ngã, là tánh Không, là Bổn lai diện mục. Từ đó tiếp tục sống đời sống của chân lý quy ước, tương đối, giả, như huyễn để giúp đỡ những người đang chìm đắm trong thế giới mộng tưởng này. Muốn giúp đỡ người khác thì phải sống với họ, cùng họ, sống trong vở kịch đời nhưng tự biết đang đóng kịch. Muốn thức tỉnh những người đang mộng thì phải đi vào giấc mộngmọi người đang sống. Đó là điều người xưa gọi là “người huyễn làm việc huyễn trong đạo tràng như huyễn”.

Trí là chân lý tuyệt đối, tối hậu đối lại với thức là chân lý tương đối, quy ước. Niết-bàn là trí không ô nhiễm, là sự tắt mất những ảo tưởng sai lầm. Còn sanh tử là thức bị ô nhiễmnuôi dưỡng, trưởng dưỡng những ảo tưởng sai lầm.

Cuối cùng của con đường giả và huyễn chúng ta thấy có hai thái độ, hai cách hành động. Một thái độ và cách hành động là thấy mọi sự quả là giả, huyễn, mộng thì vứt bỏ hẳn cái giả, huyễn, mộng ấy đi. Thái độ và cách hành động thứ hai thì ngay từ đầu con đường đã lấy đại bi làm bổn nguyện, nên mặc dầu biết là giả, huyễn, mộng vẫn tiếp tục sống trong sanh tử giả, huyễn, mộng như vậy để giúp đỡ chúng sanh huyễn mộng. Chính vì như vậy mà với vị này có thêm chữ như: như huyễn, như mộng. Một trong những chánh định của vị ấy là như huyễn tam muội.

Nói cách khác, vị trước chỉ sống chân lý tuyệt đối, tối hậu. Còn vị sau thì sống đồng thời cả chân lý tuyệt đối, tối hậuchân lý quy ước, tương đối như huyễn. Đến độ của hai chân lý ấy là một: “sắc tức là Không, Không tức là sắc”, “sanh tử tức Niết-bàn”.

Đây là một nghĩa của danh từ Trung đạo, là phái do Bồ-tát Long Thọ lập, dựa trên hệ thống các bộ kinh Bát-nhã. Đây là sự tự do của Trung đạo, tự do đối với cả sanh tử lẫn Niết-bàn.

(Văn Hoá Phật Giáo số 164)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12651)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14537)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38543)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14669)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14667)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14095)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14985)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16587)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29960)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16250)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15584)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14939)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14936)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17920)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15627)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38739)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26790)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39719)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50849)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38802)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35121)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18350)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16519)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42474)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39310)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35667)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17507)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46588)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17188)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28523)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 19023)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17633)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17141)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17601)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16565)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16951)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30926)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16969)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18549)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18517)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17416)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18192)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17107)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23555)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 17055)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17493)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17732)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17111)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15781)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18090)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17457)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17266)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29590)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27797)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18203)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16143)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15396)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23104)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14877)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55178)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant