Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

06. Tính Chất Của Ngũ Giới

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 6573)
06. Tính Chất Của Ngũ Giới

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển III:
Hành Giới

PHẦN I: GIỚI CỦA NGƯỜI TẠI GIA


Ngũ Giới Là Thường Giới (Pañcasīla Niccasīla)

Tính Chất Của Ngũ Giới

Ngũ giớithường giới (niccasīla) của tất cả mọi người tại gia cư sĩ. Nếu người nào không giữ ngũ giới đầy đủ (dù chỉ phạm 1 trong 5 điều giới cũng gọi là không giữ ngũ giới đầy đủ), thì người ấy phải chịu những tai hại xấu xa. Và nếu người nào giữ ngũ giới đầy đủ trọn vẹn, thì người ấy được những quả báu tốt lành.

Như vậy, quả ác nghiệp của người không có giới, và quả thiện nghiệp của người có giới hoàn toàn trái ngược với nhau.

Đức Phật thuyết giảng bài kinh Sīlasutta([1]) dạy về 5 tai hại của người không có giới, và 5 quả báu của người có giới đầy đủ trọn vẹn hoàn toàn trái ngược nhau như sau:

Tai hại của người không có giới:

─ Này chư Tỳ khưu, 5 điều tai hại của người không có giới, người phạm giới. 5 điều ấy như thế nào?

─ Này chư Tỳ khưu, 5 điều tai hại của người không có giới, người phạm giới. 5 điều tai hại ấy là:

1-  Này chư Tỳ khưu, trong đời này, người không có giới, người phạm giới làm tiêu tan nhiều của cải to lớn vì nhân dể duôi.

Này chư Tỳ khưu, đó là tai hại thứ nhất của người không có giới, người phạm giới.

2-  Này chư Tỳ khưu, còn điều này, người không có giới, người phạm giớitiếng xấu lan truyền khắp mọi nơi.

Này chư Tỳ khưu, đó là tai hại thứ nhì của người không có giới, người phạm giới.

3-  Này chư Tỳ khưu, còn điều này, người không có giới, người phạm giới có tâm sợ sệt, rụt rè e thẹn khi đi vào nơi hội đoàn Hoàng gia, hội đoàn gia chủ, hội đoàn Samôn, hội đoàn Bàlamôn.

Này chư Tỳ khưu, đó là tai hại thứ ba của người không có giới, người phạm giới.

4-  Này chư Tỳ khưu, còn điều này, người không có giới, người phạm giới phát sinh tâm mê muội lúc lâm chung.

Này chư Tỳ khưu, đó là tai hại thứ tư của người không có giới, người phạm giới.

5-  Này chư Tỳ khưu, còn điều này, người không có giới, người phạm giới, sau khi chết, ác nghiệp không giữ giới cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh.

Này chư Tỳ khưu, đó là tai hại thứ năm của người không có giới, người phạm giới.

─ Này chư Tỳ khưu, đó là 5 điều tai hại của người không có giới, người phạm giới như vậy.

Quả báu của người có giới:

─ Này chư Tỳ khưu, 5 quả báu của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn. 5 quả báu ấy như thế nào?

─ Này chư Tỳ khưu, 5 quả báu của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn. 5 quả báu ấy là:

1-  Này chư Tỳ khưu, trong đời này, người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn có được nhiều của cải lớn lao, do nhờ nhân không dể duôi.

Này chư Tỳ khưu, đó là quả báu thứ nhất của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn.

2-  Này chư Tỳ khưu, còn điều này, người có giới, người giữ gìn giới đầy đủ trong sạch trọn vẹn có được danh thơm tiếng tốt lan truyền khắp mọi nơi.

Này chư Tỳ khưu, đó là quả báu thứ nhì của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn.

3-  Này chư Tỳ khưu, còn điều này, người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn có tâm dũng cảm, không rụt rè e thẹn khi đi vào nơi hội đoàn Hoàng gia, hội đoàn gia chủ, hội đoàn Samôn, hội đoàn Bàlamôn.

Này chư Tỳ khưu, đó là quả báu thứ ba của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn.

4-  Này chư Tỳ khưu, còn điều này, người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn phát sinh tâm không mê muội, tâm trí sáng suốt lúc lâm chung.

Này chư Tỳ khưu, đó là quả báu thứ tư của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn.

5-  Này chư Tỳ khưu, còn điều này, người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn, sau khi chết, thiện nghiệp giữ giới cho quả tái sinh cõi thiện dục giới: Cõi người, các cõi trời dục giới,…

Này chư Tỳ khưu, đó là quả báu thứ năm của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn.

─ Này chư Tỳ khưu, đó là 5 quả báu của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn như vậy.

Quả Nghiệp Của Mỗi Giới

Ngũ giới có 5 điều giới, mà mỗi điều giới có đối tượng khác nhau, nên cách phạm mỗi điều giới, cách tạo ác nghiệp của mỗi điều giới khác nhau. Và cách giữ gìn mỗi điều giới, cách tạo thiện nghiệp của mỗi điều giới cũng khác nhau. Do đó, quả ác nghiệp của mỗi điều giới, và quả thiện nghiệp của mỗi điều giới khác nhau.

1-  Sự Sát Sinh

Sự sát sinh liên quan đến sinh mạng của chúng sinh, có thể tạo nên 2 loại nghiệp:

- Người phạm điều giới sát sinh là giết hại chúng sinh, tạo nên ác nghiệp sát sinh.

- Người giữ giới tránh xa sự sát sinh, không sát sinh, tạo nên thiện nghiệp không sát sinh.

Quả của ác nghiệp sát sinh và quả của thiện nghiệp không sát sinh hoàn toàn trái ngược nhau.

1. 1 Quả của ác nghiệp của người phạm điều giới sát sinh

Người nào phạm điều giới sát sinh, giết hại sinh mạng của chúng sinh, dù lớn dù nhỏ cũng tạo nên ác nghiệp sát sinh. Nếu có tội nặng, thì sau khi người ấy chết, ác nghiệp sát sinh ấy cho quả tái sinh trong cõi ác giới, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác nghiệp, mới thoát được khỏi cõi ác giới.

Sau khi thoát khỏi cõi ác giới, trường hợp nếu có thiện nghiệp nào khác cho quả tái sinh trở lại làm người. Và trường hợp, nếu người nào phạm điều giới sát sinh, tạo ác nghiệp sát sinh có tội nhẹ, sau khi người ấy chết, ác nghiệp sát sinh ấy không có khả năng cho quả tái sinh, mà thiện nghiệp nào khác có cơ hội cho quả tái sinh trở lại làm người; thì cả hai trường hợp này, người ấy sẽ còn phải chịu quả xấu của ác nghiệp sát sinh từ kiếp quá khứ.

Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải về 23 quả xấu của ác nghiệp sát sinh từ kiếp quá khứ như sau:

1- thân hình tật nguyền.

2- thân hình không cân đối, xấu xí.

3- Là người chậm chạp.

4- Có lòng bàn tay, và dưới lòng bàn chân lõm sâu (không đều đặn).

5- thân hình xấu xí, đầy sẹo.

6- Có sắc diện tối tăm.

7- da thịt sần sùi.

8- Có tính hay sợ hãi.

9- sức khỏe yếu đuối.

10- lời nói lặp đi lặp lại, không suôn sẻ.

11- Bị mọi người ghét bỏ.

12- Có những bộ hạ tùy tùng bị chia rẽ.

13- Có tính hay giật mình, hoảng sợ.

14- Thường bị tai nạn do khí giới, thuốc độc…

15-  Là người si mê, ngu dốt.

16-  Có rất ít bạn bè.

17- thân hình dị hợm, đáng ghê sợ.

18- thân hình kỳ dị.

19-  Hay bệnh hoạn ốm đau.

20-  Thường sầu não, lo sợ.

21-  Con cháu thường xa lánh.

22-  Mỗi kiếp thường bị chết yểu.

23- Bị chết do người khác giết.

Đó là 23 quả xấu của ác nghiệp sát sinh từ trong kiếp quá khứ.

1. 2 Quả của thiện nghiệp của người giữ điều giới không sát sinh

Người nào giữ gìn ngũ giới trong sạchtrọn vẹn, trong đó có điều giới “tác ý tránh xa sự sát sinh”; sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không sát sinh ấy cho quả tái sinh làm vị thiên nam hoặc thiên nữ trong cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ.

Sau khi chết tại cõi trời ấy, nếu trường hợp thiện nghiệp không sát sinh cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người. Và trường hợp, nếu sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không sát sinh không cho quả tái sinh lên cõi trời dục giới, mà lại cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người; thì cả hai trường hợp này, người ấy sẽ có được quả báu tốt của thiện nghiệp không sát sinh từ kiếp quá khứ đáng hài lòng hoan hỷ.

Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải 23 quả báu của thiện nghiệp không sát sinh từ kiếp quá khứ như sau:

1- thân hình không tật nguyền, đầy đủ các bộ phận lớn nhỏ trong cơ thể.

2- thân hình cân đối xinh đẹp.

3- Là người nhanh nhẹn.

4- Có lòng bàn tay, lòng bàn chân đầy đặn.

5- thân hình xinh đẹp, không tỳ vết.

6- da thịt mềm mại, hồng hào.

7- thân hình sạch sẽ, trong sáng.

8- Có tâm dũng cảm, không sợ hãi.

9- sức khỏe dồi dào.

10- Có giọng nói thanh tao, lời nói ngọt ngào, suôn sẻ.

11- Được mọi người quý mến.

12- Có bộ hạ tùy tùng, bạn bè đoàn kết gắn bó thương yêu nhau.

13- Thân tâm được an lạc tự tại, không hoảng sợ.

14- Không bị tai nạn do khí giới, thuốc độc….

15- trí tuệ sáng suốt.

16- Có nhiều bạn bè thân thiết.

17- thân hình đẹp đẽ, đáng quý mến.

18- Có các bộ phận lớn nhỏ trong thân thể cân đối đẹp đẽ.

19- Là người ít bệnh hoạn ốm đau.

20- Là người có tâm thường an lạc.

21- Là người thường được sống gần gũi với con cháu yêu quý.

22- Là người được trường thọ, sống lâu.

23- Không có một ai có thể mưu sát được.

Đó là 23 quả báu tốt của thiện nghiệp không sát sinh từ trong kiếp quá khứ.

2-  Sự Trộm Cắp

Sự trộm cắp liên quan đến của cải tài sản của người khác, có thể tạo nên 2 loại nghiệp:

- Người phạm điều giới trộm cắp của cải tài sản của người khác, tạo nên ác nghiệp trộm cắp.

- Người giữ giới tránh xa sự trộm cắp, không trộm cắp, tạo nên thiện nghiệp không trộm cắp.

Quả của ác nghiệp trộm cắp và quả của thiện nghiệp không trộm cắp hoàn toàn trái ngược nhau.

2. 1 Quả ác nghiệp của người phạm điều giới trộm cắp

Người nào phạm điều giới trộm cắp của cải tài sản của người khác dù ít dù nhiều cũng tạo nên ác nghiệp trộm cắp. Nếu có tội nặng, thì sau khi người ấy chết, ác nghiệp trộm cắp cho quả tái sinh trong cõi ác giới, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác nghiệp, mới thoát được khỏi cõi ác giới.

Sau khi thoát khỏi cõi ác giới, trường hợp nếu có thiện nghiệp nào cho quả tái sinh trở lại làm người. Và trường hợp, nếu người nào phạm điều giới trộm cắp, tạo nên ác nghiệp trộm cắptội nhẹ, sau khi người ấy chết, ác nghiệp trộm cắp ấy không có khả năng cho quả tái sinh, mà thiện nghiệp nào khác cho quả tái sinh trở lại làm người; thì cả hai trường hợp này, người ấy sẽ còn phải chịu quả xấu của ác nghiệp trộm cắp từ kiếp quá khứ.

Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải về 11 quả xấu của ác nghiệp trộm cắp từ kiếp quá khứ như sau:

1- Không thể có những thứ của cải quý giá.

2- Thiếu thốn những nhu yếu phẩm như lúa gạo, tiền bạc, đồ dùng, v.v…

3- Là người nghèo khổ túng thiếu của cải.

4- Không phát triển được những thứ của cải mới.

5- Khi làm ra được của cải quý giá, thì không giữ gìn được lâu dài.

6- Không thể có được thứ của cải mà mình mong muốn.

7- Khi có được của cải, thì thường bị thiệt hại do lửa thiêu cháy, do nước lũ cuốn trôi, do kẻ trộm cướp chiếm đoạt, do nhà Vua tịch thu...

8- Của cải được phát triển, thì cũng liên quan đến nhiều người, không riêng cho mình được.

9- Là người không thể nào chứng đắc được pháp Siêu tam giới (4 Thánh Đạo + 4 Thánh QuảNiết Bàn).

10- Là người thường nghe đến danh từ ‘không có’.

11- Là người sống không được an lạc.

Đó là 11 quả xấu của ác nghiệp trộm cắp từ trong kiếp quá khứ.

2. 2 Quả thiện nghiệp của người giữ điều giới không trộm cắp

Người nào giữ gìn ngũ giới trong sạchtrọn vẹn, trong đó có điều giới “có tác ý tránh xa sự trộm cắp”; sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không trộm cắp ấy cho quả tái sinh làm vị thiên nam hoặc thiên nữ trong cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ.

Sau khi chết tại cõi trời ấy, nếu trường hợp thiện nghiệp không trộm cắp cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người. Và trường hợp, nếu sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không trộm cắp không cho quả tái sinh lên cõi trời dục giới, mà lại cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người; thì cả hai trường hợp này, người ấy sẽ có được quả báu tốt của thiện nghiệp không trộm cắp từ kiếp quá khứ đáng hài lòng hoan hỷ.

Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải về 11 quả báu của thiện nghiệp không trộm cắp từ kiếp quá khứ như sau:

1- Là người có nhiều của cải quý giá, giàu sang.

2- Có đầy đủ của cải, tài sản như lúa gạo, vàng bạc, châu báu,...

3- Là người có nhiều của cải, tài sản lớn lao, giàu sang phú quý, tiêu dùng không sao hết được.

4- Của cải nào chưa phát sinh, thì của cải ấy sẽ được phát sinh và càng phát triển nhiều.

5- Những thứ của cải quý giá nào như vàng bạc, ngọc ngà, châu báu,… đã có rồi, thì những thứ của cải quý giá ấy được giữ gìn duy trì bền vững lâu dài.

6- Mong muốn những thứ của cải quý giá nào, thì chắc chắn mau chóng thành tựu như ý.

7- Những thứ của cải, tài sản lớn lao của người ấy, không bị thiệt hại do lửa thiêu cháy, do nước lũ cuốn trôi, do kẻ trộm cướp chiếm đoạt, do nhà Vua tịch thu, do người không ưa thích đoạt lấy…

8- Của cải được phát triển, không liên quan đến người khác, chính mình sở hữu.

9- Là người có thể chứng đắc được pháp Siêu tam giới (4 Thánh Đạo + 4 Thánh QuảNiết Bàn).

10- Là người không thường nghe đến danh từ ‘không có’, bởi vì muốn thứ nào, thì có ngay thứ ấy.

11-  Là người sống được an lạc.

Đó là 11 quả báu tốt của thiện nghiệp không trộm cắp từ trong kiếp quá khứ.

3-  Sự Tà Dâm

Sự tà dâm liên quan đến tà dâm với vợ, chồng, con của người khác, có thể tạo nên 2 loại nghiệp:

- Người phạm điều giới tà dâm với vợ, chồng, con của người khác, tạo nên ác nghiệp tà dâm.

- Người giữ giới tránh xa sự tà dâm, không tà dâm với vợ, chồng, con của người khác, tạo nên thiện nghiệp không tà dâm.

Quả của ác nghiệp tà dâm và quả của thiện nghiệp không tà dâm hoàn toàn trái ngược nhau.

3. 1 Quả ác nghiệp của người phạm điều giới tà dâm

Người nào phạm điều giới tà dâm với vợ, chồng, con của người khác, tạo nên ác nghiệp dâm. Nếu có tội nặng, thì sau khi người ấy chết, ác nghiệp tà dâm ấy cho quả tái sinh trong cõi ác giới, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác nghiệp, mới thoát được khỏi cõi ác giới.

Sau khi thoát khỏi cõi ác giới, trường hợp nếu có thiện nghiệp nào khác cho quả tái sinh làm người. Và trường hợp, nếu người nào phạm điều giới tà dâm, tạo ác nghiệp, có tội nhẹ, thì sau khi người ấy chết, ác nghiệp tà dâm ấy không có khả năng cho quả tái sinh, mà thiện nghiệp nào khác cho quả tái sinh trở lại làm người; thì cả hai trường hợp này, người ấy sẽ còn phải chịu quả xấu của ác nghiệp tà dâm từ kiếp quá khứ.

Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải về 20 quả xấu của ác nghiệp tà dâm từ kiếp quá khứ như sau:

1- Là người có nhiều người oan trái.

2- Là người có nhiều người thù ghét.

3- Là người nghèo khổ, thiếu thốn.

4- Là người ngủ không được an lạc.

5- Là người thức không được an lạc.

6- Là người không tránh khỏi 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh).

7- Là người ái nam, ái nữ (không phải đàn ông, cũng không phải đàn bà).

8- Là người có tính hay nóng giận.

9- Là người sinh vào dòng họ thấp hèn, hạng người thấp hèn.

10- Là người có tính không minh bạch, hay che giấu tội lỗi.

11- Là người có thân hình tật nguyền, xấu xí.

12- Là người có sắc diện mặt mày sầu não, khổ tâm.

13- Là người bị mọi người coi thường khinh bỉ, không tin tưởng.

14- Là người khuyết tật: Đui mù, câm điếc,...

15- Sinh làm người đàn bà (tiền kiếp là người đàn ông).

16- Là người có nhiều chứng bệnh đáng ghê sợ.

17- Là người không biết đủ, sống khổ cực.

18- Là người sống nơi nào cũng không được an lạc.

19- Là người gặp nhiều tai hại, oan trái với mọi người.

20- Là người sống xa người thân yêu, hay bị ruồng bỏ.

Đó là 20 quả xấu của ác nghiệp tà dâm từ kiếp quá khứ.

3. 2 Quả thiện nghiệp của người giữ điều giới không tà dâm

Người nào giữ gìn ngũ giới trong sạchtrọn vẹn, trong đó có điều giới “tác ý tránh xa sự tà dâm”; sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không tà dâm ấy cho quả tái sinh làm vị thiên nam hoặc thiên nữ trong cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ.

Sau khi chết tại cõi trời ấy, nếu trường hợp thiện nghiệp không tà dâm cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người. Và trường hợp, nếu sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không tà dâm không cho quả tái sinh lên cõi trời dục giới, mà lại cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người; thì cả hai trường hợp này người ấy sẽ có được quả báu tốt của thiện nghiệp không tà dâm từ kiếp quá khứ đáng hài lòng hoan hỷ.

Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải về 20 quả báu tốt của thiện nghiệp không tà dâm từ kiếp quá khứ như sau:

1- Là người không có người oan trái.

2- Là người được mọi người thương yêu quý mến.

3- Là người có nhiều của cải giàu sang phú quý.

4-  Là người ngủ được an lạc.

5- Là người thức được an lạc.

6- Là người có thể tránh được 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh).

7- Sinh làm người đàn ông hoàn toàn 100%.

8- Là người có tính ôn hòa, ít nóng giận.

9- Là người sinh ra trong dòng họ cao quý, có tính khiêm nhường.

10- Là người có tính minh bạch rõ ràng, không che giấu tội lỗi.

11- Là người không có tật nguyền, có thân hình xinh đẹp, đáng ngưỡng mộ.

12- Là người có sắc diện trong sáng.

13- Là người được mọi người tin tưởng.

14- Là người có ngũ quan (5 giác quan của con người) đầy đủ và tốt đẹp.

15- Là người có tư cách đáng kính.

16- Là người không có những chứng bệnh đáng ghê sợ.

17- Là người có trí tuệ, đời sống được an lạc.

18- Là người sống nơi nào cũng được an lạc.

19- Là người không có tai hại, không có người gây oan trái.

20- Là người thường được sống gần gũi với người thân yêu.

Đó là 20 quả báu tốt của thiện nghiệp không tà dâm từ kiếp quá khứ.

4-  Sự Nói Dối

Sự nói dối liên quan đến nói lời không chân thật, lừa dối,... có thể tạo nên 2 loại nghiệp:

- Người phạm điều giới nói dối gây ra thiệt hại đến người khác, tạo nên ác nghiệp nói dối.

- Người giữ giới tránh xa sự nói dối, không nói dối, tạo nên thiện nghiệp không nói dối.

Quả của ác nghiệp nói dối và quả của thiện nghiệp không nói dối hoàn toàn trái ngược nhau.

4. 1 Quả ác nghiệp của người phạm điều giới nói dối

Người nào phạm điều giới nói dối gây ra sự thiệt hại dù ít dù nhiều cũng tạo nên ác nghiệp nói dối. Nếu có tội nặng, thì sau khi người ấy chết, ác nghiệp nói dối cho quả tái sinh trong cõi ác giới, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác nghiệp, mới thoát được khỏi cõi ác giới.

Sau khi thoát khỏi cõi ác giới, trường hợp nếu có thiện nghiệp nào khác cho quả tái sinh trở lại làm người. Và trường hợp, nếu người nào phạm điều giới nói dối, tạo ác nghiệp, có tội nhẹ, thì sau khi người ấy chết, ác nghiệp nói dối ấy không có khả năng cho quả tái sinh, mà thiện nghiệp nào khác cho quả tái sinh trở lại làm người; thì cả hai trường hợp này, người ấy sẽ còn phải chịu quả xấu của ác nghiệp nói dối từ kiếp quá khứ.

Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải về 14 quả xấu của ác nghiệp nói dối từ kiếp quá khứ như sau:

1- Là người có ngũ quan (5 giác quan của con người) không trong sáng.

2- Là người có giọng nói không rõ, khó nghe.

3- Là người có đôi hàm răng không đều đặn, xấu xí.

4- Là người có thân hình quá mập, dị kỳ.

5- Là người có thân hình quá ốm, tong teo.

6- Là người có thân hình quá thấp, lùn tịt.

7- Là người có thân hình quá cao, lêu nghêu.

8- Là người có da thịt sần sùi, xấu xí.

9- Là người mà trong miệng thường thoát ra mùi hôi khó chịu.

10- Là người nói không ai tin theo.

11- Là người nói không ai muốn nghe.

12- Là người có cái lưỡi cứng và ngắn.

13- Là người có tâm thường thoái chí nản lòng.

14- Là người có tật nói cà lăm, hoặc bị câm điếc.

Đó là 14 quả xấu của ác nghiệp nói dối từ trong kiếp quá khứ.

4. 2 Quả thiện nghiệp của người giữ điều giới không nói dối

Người nào giữ gìn ngũ giới trong sạchtrọn vẹn, trong đó có điều giới “tác ý tránh xa sự nói dối”; sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không nói dối ấy cho quả tái sinh làm vị thiên nam hoặc thiên nữ trong cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ.

Sau khi chết tại cõi trời ấy, nếu trường hợp thiện nghiệp không nói dối cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người. Và trường hợp, nếu sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không nói dối không cho quả tái sinh lên cõi trời dục giới, mà lại cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người; thì cả hai trường hợp này người ấy sẽ có được quả báu tốt của thiện nghiệp không nói dối từ kiếp quá khứ đáng hài lòng hoan hỷ.

Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải về 14 quả báu tốt của thiện nghiệp không nói dối từ kiếp quá khứ như sau:

1- Là người có ngũ quan (5 giác quan của con người) trong sáng.

2- Là người có giọng nói ngọt ngào, dễ nghe.

3- Là người có đôi hàm răng đều đặn, đẹp đẽ.

4- Là người có thân hình không mập quá.

5- Là người có thân hình không ốm quá.

6- Là người có thân hình không thấp quá.

7- Là người có thân hình không cao quá.

8- Là người có da thịt mịn màng, mềm mại.

9- Là người mà trong miệng có mùi thơm tho thoát ra dễ chịu như mùi hoa sen.

10- Là người nói được nhiều người tin theo, không có ai ganh tỵ.

11- Là người nói được nhiều người muốn nghe.

12- Là người có cái lưỡi mềm mỏng, màu hồng như cánh hoa sen đỏ.

13- Là người có định tâm vững vàng.

14- Là người có lời nói rõ ràng, ý nghĩa sâu sắc, được nhiều người tin tưởngtôn trọng.

Đó là 14 quả báu tốt của thiện nghiệp không nói dối từ kiếp quá khứ.

5-  Sự Uống Rượu Và Các Chất Say

Rượu và các chất say liên quan đến uống rượu và các chất say, là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp, có thể tạo nên 2 loại nghiệp:

- Người phạm điều giới uống rượu và các chất say, tạo nên ác nghiệp do uống rượu và các chất say.

- Người giữ giới tránh xa sự uống rượu và các chất say, không uống rượu và các chất say, tạo thiện nghiệp do không uống rượu và các chất say.

Quả của ác nghiệp do uống rượu và các chất say và quả của thiện nghiệp do không uống rượu và các chất say hoàn toàn trái ngược nhau.

5. 1 Quả ác nghiệp của người phạm điều giới uống rượu và các chất say

Người nào phạm điều giới uống rượu và các chất say dù ít dù nhiều cũng tạo nên ác nghiệp do uống rượu và các chất say. Nếu có tội nặng, thì sau khi người ấy chết, ác nghiệp do uống rượu và các chất say cho quả tái sinh trong cõi ác giới, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác nghiệp, mới thoát được khỏi cõi ác giới.

Sau khi thoát khỏi cõi ác giới, trường hợp nếu có thiện nghiệp nào khác cho quả tái sinh trở lại làm người. Và trường hợp, nếu người nào phạm điều giới uống rượu và các chất say, tạo ác nghiệp, có tội nhẹ, thì sau khi người ấy chết, ác nghiệp do uống rượu và các chất say ấy không có khả năng cho quả tái sinh, mà thiện nghiệp nào khác cho quả tái sinh trở lại làm người; thì cả hai trường hợp này người ấy sẽ còn phải chịu quả xấu của ác nghiệp do uống rượu và các chất say từ kiếp quá khứ.

Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải về 30 quả xấu của ác nghiệp do uống rượu và các chất say từ kiếp quá khứ như sau:

1- Là người không biết những công việc đã làm, đang làm và sẽ làm.

2- Là người thường không có trí nhớ, hay quên mình.

3- Là người loạn trí, điên cuồng.

4- Là người không có trí tuệ.

5- Là người có tính lười biếng trong công việc.

6- Là người thường hay buồn ngủ.

7- Là người bị câm điếc từ khi đầu thai.

8-  Là người si mê, ngu dốt.

9-  Là người khó nhớ, dễ quên.

10-  Là người có sự hiểu biết kém cỏi, dốt nát.

11-  Là người có thân hình nặng nề chậm chạp.

12-  Là người thường bị tai nạn.

13-  Là người sầu não, khổ tâm.

14-  Là người hay nói lảm nhảm.

15-  Là người hay nói lời chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích.

16-  Là người có tính biếng nhác ngày đêm trong công việc nặng, nhẹ.

17-  Là người không biết ơn và không biết đền ơn đối với người ân nhân của mình.

18-  Là người không biết công việc đã làm xong.

19-  Là người keo kiệt, bủn xỉn.

20-  Là người không thích làm phước thiện bố thí đến cho người khác.

21-  Là người không có giới, hoặc phạm điều giới.

22-  Là người không chân thật, không ngay thẳng.

23-  Là người hay sinh tâm sân hận.

24-  Là người không biết hổ thẹn tội lỗi, khi làm ác.

25-  Là người không biết ghê sợ tội lỗi, khi làm ác.

26-  Là người có tà kiến hiểu lầm, chấp lầm trong mọi đối tượng.

27-  Là người dám tạo mọi tội ác.

28-  Là người không có trí tuệ, không hiểu rõ chân lý.

29-  Là người không thể phát sinh trí tuệ.

30-  Là người không biết phân biệt được sự lợi, sự hại, điều chánh, lẽ .

Đó là 30 quả xấu của ác nghiệp do uống rượu và các chất say từ kiếp quá khứ.

5. 2 Quả thiện nghiệp của người giữ điều giới không uống rượu và các chất say

Người nào giữ gìn ngũ giới trong sạchtrọn vẹn, trong đó có điều giới “tác ý tránh xa sự uống rượu và các chất say”; sau khi người ấy chết, thiện nghiệp do không uống rượu và các chất say ấy cho quả tái sinh làm vị thiên nam hoặc thiên nữ trong cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ.

Sau khi chếtcõi trời ấy, nếu trường hợp thiện nghiệp do không uống rượu và các chất say ấy cho quả tái sinh làm người trong cõi người. Và trường hợp, nếu sau khi người ấy chết, thiện nghiệp do không uống rượu và các chất say không cho quả tái sinh lên cõi trời dục giới, mà lại cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người; thì cả hai trường hợp này người ấy sẽ có được quả báu tốt của thiện nghiệp do không uống rượu và các chất say từ kiếp quá khứ đáng hài lòng hoan hỷ.

Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải về 30 quả báu tốt của thiện nghiệp do không uống rượu và các chất say từ kiếp quá khứ như sau:

1-  Là người có trí tuệ sáng suốt, hiểu biết mau lẹ những công việc đã làm, đang làm và sẽ làm.

2-  Là người thường có trí nhớ.

3-  Là người không loạn trí, điên cuồng.

4-  Là người có trí tuệ, thông minh, nhạy bén.

5-  Là người có sự tinh tấn không ngừng.

6-  Là hạng người có tam nhân (vô tham, vô sân, vô si) từ khi đầu thai.

7-  Là người không bị câm điếc,… từ khi đầu thai.

8-  Là người có trí tuệ sáng suốt, không mê muội.

9-  Là hạng người không dể duôi trong mọi thiện pháp.

10-  Là hạng người đa văn túc trí, học nhiều hiểu rộng.

11-  Là người có thân hình đầy đủ, cân đối các bộ phận lớn nhỏ xinh đẹp.

12-  Là người ít gặp tai nạn.

13-  Là người ít có sầu não, khổ tâm.

14-  Là người thường nói lời chân thật, đáng tin.

15-  Là người không nói lời chia rẽ, không nói lời thô tục, không nói lời vô ích.

16-  Là người có sự tinh tấn không ngừng ngày đêm trong mọi công việc thiện.

17-  Là người có lòng biết ơn và biết đền ơn đối với người ân nhân của mình.

18-  Là người hiểu biết những công việc đã làm.

19-  Là người không có tính keo kiệt, bủn xỉn của cải của mình.

20-  Là người có tâm hoan hỷ trong việc làm phước bố thí của cải đến cho người khác.

21-  Là người có giới đầy đủ và trọn vẹn.

22-  Là người trung thực với mình và mọi người.

23-  Là người ít sinh tâm sân hận .

24-  Là người biết hổ thẹn tội lỗi, không dám làm điều ác.

25-  Là người biết ghê sợ tội lỗi, không dám làm điều ác.

26-  Là người có chánh kiến thấy đúng, có khả năng thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp.

27-  Là người có nhiều phước thiện cao thượng.

28-  Là người có nhiều trí tuệ, hiểu biết các pháp.

29-  Là bậc thiện trí hiểu biết phân biệt được điều lợi, điều hại, điều chánh, lẽ tà,….

30-  Là bậc thiện trí biết sự lợi ích kiếp hiện tại, sự lợi ích kiếp vị lai, sự lợi ích Tối Thượng Niết Bàn.

Đó là 30 quả báu tốt của thiện nghiệp do không uống rượu và các chất say từ kiếp quá khứ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4983)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4369)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4660)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4703)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5860)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3301)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5261)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2932)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4136)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5283)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4263)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3323)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6361)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5332)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4629)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6239)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6109)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3895)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6035)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4643)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4795)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3390)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6278)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4946)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3545)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3474)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5670)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4244)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 5993)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5238)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3670)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3759)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3707)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3531)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5365)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4013)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4362)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5825)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3129)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3068)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3861)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4859)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3572)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3046)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4572)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4720)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3436)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 3994)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4726)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3569)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3605)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5138)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4159)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3293)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 2997)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3039)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3112)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3109)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3476)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 4004)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant