Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

19. Kinh Vô Ngã Tướng

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 15492)
19. Kinh Vô Ngã Tướng

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển I:
Tam Bảo

CHƯƠNG I: BA NGÔI CAO CẢ (TIYAGGA)


KINH VÔ NGÃ TƯỚNG (ANATTALAKKHANASUTTA)

Đức Thế Tôn thuyết pháp lần đầu tiên bài kinh Chuyển Pháp Luân để tế độ nhóm 5 vị Tỳ-khưu, Ngài Koṇḍanna chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, là vị Thánh Nhân đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama vào ngày rằm tháng 6 (âm lịch), tiếp theo sau, mỗi ngày một vị chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, đến ngày 19 tháng 6, nhóm 5 vị Tỳ-khưu đều đã chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu.

Ngày 20 tháng 6, Đức Phật thuyết bài kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇasutta) để tế độ nhóm 5 vị Tỳ-khưu chứng đắc thành bậc Thánh Arahán.

Phần I: Ý nghĩa kệ khai kinh Vô Ngã Tướng

Dhammacakkaṃ pavattetvā...

Khu rừng yên tịnh nơi phóng sinh nai
Tên gọi là I-si-pa-ta-na
Gần kinh thành Bà-rà-na-si ấy,
Ngày rằm tháng sáu, trăng rằm sáng tỏ
Đức Phật đã thuyết, kinh Chuyển Pháp Luân
Tỳ-khưu chứng đắc bậc Thánh Nhập Lưu
Tuần tự theo mỗi ngày, thêm mỗi vị.
Nhóm năm Tỳ-khưu thành Thánh Nhập Lưu,
Đến ngày mồng năm
(20/6AL) tuần trăng hạ huyền
Đức Phật thuyết pháp kinh Vô Ngã Tướng
Tế độ Tỳ-khưu, thành A-ra-hán.
Này chư thiện trí, xin hãy lắng nghe
Chúng tôi tụng kinh, Vô Ngã Tướng ấy.

Phần II: Ý nghĩa của bài kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇasutta)

Evaṃ me sutaṃ...

Lời của Ngài Đại đức Ānanda bạch với Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa.

- Kính bạch Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa khả kính.

Con là Ānanda được nghe bài kinh Vô Ngã Tướng từ Đức Thế Tôn như vầy:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, trước kia Đức Phật Độc Giác thường ngự xuống. Tại nơi đây, Đức Thế Tôn bèn gọi nhóm 5 Tỳ-khưu rằng:

- Này chư Tỳ-khưu.

Chư Tỳ-khưu đáp lời Đức Thế Tôn:

- Dạ, kính bạch Đức Thế Tôn.

Đức Thế Tôn thuyết giảng kinh Vô Ngã Tướng như sau:

Ngũ uẩnvô ngã

1- Sắc uẩnvô ngã

- Này chư Tỳ-khưu, sắc uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ai).

Này chư Tỳ-khưu, thật vậy, nếu sắc uẩn này là ta (ngã), thì sắc uẩn này không bị biến đổi, không bệnh hoạn; và các con có thể mong muốn được trong sắc uẩn này rằng:

Sắc uẩn của tôi được khỏe mạnh, đẹp đẽ như thế này!

Sắc uẩn của tôi đừng có bệnh hoạn, xấu xí như thế kia”.

Này chư Tỳ-khưu, sự thật, bởi vì sắc uẩn này là vô ngã, do đó, sắc uẩn này phải bị biến đổi, bệnh hoạn.Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong sắc uẩn này rằng:

Sắc uẩn của tôi được khỏe mạnh, đẹp đẽ như thế này!

Sắc uẩn của tôi đừng có bệnh hoạn, xấu xí như thế kia”.

(sắc uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên, không tùy thuộc theo ý muốn của mình).

2- Thọ uẩnvô ngã

- Này chư Tỳ-khưu, thọ uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ai).

Này chư Tỳ-khưu, thật vậy, nếu thọ uẩn này là ta (ngã), thì thọ uẩn này không bị biến đổi, không bệnh tâm, không bệnh thân; và các con có thể mong muốn được trong thọ uẩn này rằng:

Thọ uẩn của tôi được an lạc như thế này!

Thọ uẩn của tôi đừng khổ đau như thế kia”.

Này chư Tỳ-khưu, sự thật, bởi vì thọ uẩn này là vô ngã; do đo, thọ uẩn này phải bị biến đổi, bệnh tâm, bệnh thân. Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong thọ uẩn này rằng:

Thọ uẩn của tôi được an lạc như thế này!

Thọ uẩn của tôi đừng khổ đau như thế kia”.

(thọ uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên tiếp xúc đối tượng, không tùy thuộc theo ý muốn của ai).

3- Tưởng uẩnvô ngã

- Này chư Tỳ-khưu, tưởng uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ai).

Này chư Tỳ-khưu, thật vậy, nếu tưởng uẩn này là ta (ngã), thì tưởng uẩn này không bị biến đổi, không bệnh tâm, không bệnh thân; và các con có thể mong muốn được trong tưởng uẩn này rằng:

Tưởng uẩn của tôi ghi nhớ điều tốt, điều thiện như thế này!

Tưởng uẩn của tôi đừng ghi nhớ điều ác, điều xấu như thế kia”.

Này chư Tỳ-khưu, sự thật, bởi vì tưởng uẩn này là vô ngã, do đó, tưởng uẩn này phải bị biến đổi, bệnh tâm, bệnh thân. Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong tưởng uẩn này rằng:

Tưởng uẩn của tôi được ghi nhớ điều tốt, điều thiện như thế này!

Tưởng uẩn của tôi đừng ghi nhớ điều ác, điều xấu như thế kia”.

(tưởng uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên tiếp xúc đối tượng, không tùy thuộc theo ý muốn của ai).

4- Hành uẩnvô ngã

- Này chư Tỳ-khưu, hành uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ai).

Này chư Tỳ-khưu, thật vậy, nếu hành uẩn này là ta (ngã), thì hành uẩn này không bị biến đổi, không bệnh tâm, không bệnh thân; và các con có thể mong muốn được trong hành uẩn này rằng:

Hành uẩn của tôi tạo thiện nghiệp như thế này!

Hành uẩn của tôi đừng tạo ác nghiệp như thế kia”.

Này chư Tỳ-khưu, sự thật bởi vì hành uẩn này là vô ngã, do đó, hành uẩn này phải bị biến đổi, bệnh tâm, bệnh thân. Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong hành uẩn này rằng:

Hành uẩn của tôi tạo thiện nghiệp như thế này!

Hành uẩn của tôi đừng tạo ác nghiệp như thế kia”.

(hành uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên tiếp xúc đối tượng, không tùy thuộc theo ý muốn của ai).

5- Thức uẩnvô ngã

- Này chư Tỳ-khưu, thức uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ai).

Này chư Tỳ-khưu, thật vậy, nếu thức uẩn này là ta (ngã), thì thức uẩn này không bị biến đổi, không bệnh tâm, không bệnh thân; và các con có thể mong muốn được trong thức uẩn này rằng:

Thức uẩn của tôi biết điều tốt, điều thiện như thế này!

Thức uẩn của tôi đừng biết điều xấu, điều ác như thế kia”.

Này chư Tỳ-khưu, sự thật, bởi vì thức uẩn này là vô ngã, do đó, thức uẩn này phải bị biến đổi, bệnh tâm, bệnh thân. Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong thức uẩn này rằng:

Thức uẩn của tôi biết điều tốt, điều thiện như thế này!

Thức uẩn của tôi đừng biết điều xấu, điều ác như thế kia”.

(thức uẩn hoàn toàn tùy thuộc nhân duyên danh pháp, sắc pháp, không tùy thuộc theo ý muốn của ai).

Ngũ uẩn có ba trạng thái chung

1) Sắc uẩn có 3 trạng thái chung

- Này chư Tỳ-khưu, các con nhận thức thế nào về điều này?

Sắc uẩn này là thường hay vô thường?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, sắc uẩn này sinh rồi diệt là vô thường.

- Này chư Tỳ-khưu, sắc uẩn nào là vô thường, vậy sắc uẩn ấy là khổ hay lạc?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, sắc uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên sắc uẩn ấy là khổ.

- Này chư Tỳ-khưu, sắc uẩn nào vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi sắc uẩn ấy rằng:

Sắc uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái)

Sắc uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn)

Sắc uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ sắc uẩn ấy như vậy.

2) Thọ uẩn có 3 trạng thái chung

- Này chư Tỳ-khưu, các con nhận thức thế nào về điều này?

Thọ uẩn này là thường hay vô thường?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, thọ uẩn này sinh rồi diệt là vô thường.

- Này chư Tỳ-khưu, thọ uẩn nào là vô thường, vậy thọ uẩn ấy là khổ hay lạc?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, thọ uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên thọ uẩn ấy là khổ.

- Này chư Tỳ-khưu, thọ uẩn nào là vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi thọ uẩn ấy rằng:

Thọ uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái)

Thọ uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn)

Thọ uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ thọ uẩn ấy như vậy.

3) Tưởng uẩn có 3 trạng thái chung

- Này chư Tỳ-khưu, các con nhận thức thế nào về điều này?

Tưởng uẩn này là thường hay vô thường?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, tưởng uẩn này sinh rồi diệt là vô thường.

- Này chư Tỳ-khưu, tưởng uẩn nào là vô thường, vậy tưởng uẩn ấy là khổ hay lạc?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, tưởng uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên tưởng uẩn ấy là khổ.

- Này chư Tỳ-khưu, tưởng uẩn nào là vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi tưởng uẩn ấy rằng:

Tưởng uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái)

Tưởng uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn)

Tưởng uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ tưởng uẩn ấy như vậy.

4) Hành uẩn có 3 trạng thái chung

- Này chư Tỳ-khưu, các con nhận thức thế nào về điều này?

Hành uẩn này là thường hay vô thường?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, hành uẩn này sinh rồi diệt là vô thường.

- Này chư Tỳ-khưu, hành uẩn nào là vô thường, vậy hành uẩn ấy là khổ hay lạc?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, hành uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên hành uẩn ấy là khổ.

- Này chư Tỳ-khưu, hành uẩn nào là vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi hành uẩn ấy rằng:

Hành uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái)

Hành uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn)

Hành uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ hành uẩn ấy như vậy.

5) Thức uẩn có 3 trạng thái chung

- Này chư Tỳ-khưu, các con nhận thức thế nào về điều này?

Thức uẩn này là thường hay vô thường?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, thức uẩn này sinh rồi diệt là vô thường.

- Này chư Tỳ-khưu, thức uẩn nào là vô thường, vậy thức uẩn ấy là khổ hay lạc?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, thức uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên thức uẩn ấy là khổ.

- Này chư Tỳ-khưu, thức uẩn nào là vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi thức uẩn ấy rằng:

Thức uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái)

Thức uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn)

Thức uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ thức uẩn ấy như vậy.

Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ ngũ uẩn:

1) Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ nơi sắc uẩn

Vì vậy, này chư Tỳ-khưu, những sắc uẩn nào đã sinh trong thời quá khứ, sẽ sinh trong thời vị lai, đang sinh trong thời hiện tại, hoặc sắc uẩn bên trong của mình, hoặc sắc uẩn bên ngoài (của người khác), hoặc sắc uẩn thô, hoặc sắc uẩn vi tế, hoặc sắc uẩn thấp hèn, hoặc sắc uẩn cao quý, hoặc sắc uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc sắc uẩn nào sinh ở nơi gần. Vậy các con nên biết bằng trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật tánh của tất cả sắc uẩn ấy rằng:

Sắc uẩn ấy không phải của ta.

Sắc uẩn ấy không phải ta.

Sắc uẩn ấy không phải tự ngã của ta.

2) Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ nơi thọ uẩn.

Vì vậy, này chư Tỳ-khưu, những thọ uẩn nào đã sinh trong thời quá khứ, sẽ sinh trong thời vị lai, đang sinh trong thời hiện tại, hoặc thọ uẩn bên trong của mình, hoặc thọ uẩn bên ngoài (của người khác), hoặc thọ uẩn thô, hoặc thọ uẩn vi tế, hoặc thọ uẩn thấp hèn, hoặc thọ uẩn cao quý, hoặc thọ uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc thọ uẩn nào sinh ở nơi gần. Vậy các con nên biết bằng trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật tánh của tất cả thọ uẩn ấy rằng:

Thọ uẩn ấy không phải của ta.

Thọ uẩn ấy không phải ta.

Thọ uẩn ấy không phải tự ngã của ta.

3) Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ nơi tưởng uẩn.

Vì vậy, này chư Tỳ-khưu, những tưởng uẩn nào đã sinh trong thời quá khứ, sẽ sinh trong thời vị lai, đang sinh trong thời hiện tại, hoặc tưởng uẩn bên trong của mình, hoặc tưởng uẩn bên ngoài (của người khác), hoặc tưởng uẩn thô, hoặc tưởng uẩn vi tế, hoặc tưởng uẩn thấp hèn, hoặc tưởng uẩn cao quý, hoặc tưởng uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc tưởng uẩn nào sinh ở nơi gần. Vậy các con nên biết bằng trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật tánh của tất cả tưởng uẩn ấy rằng:

Tưởng uẩn ấy không phải của ta.

Tưởng uẩn ấy không phải ta.

Tưởng uẩn ấy không phải tự ngã của ta.

4) Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ nơi hành uẩn.

Vì vậy, này chư Tỳ-khưu, những hành uẩn nào đã sinh trong thời quá khứ, sẽ sinh trong thời vị lai, đang sinh trong thời hiện tại, hoặc hành uẩn bên trong của mình, hoặc hành uẩn bên ngoài (của người khác), hoặc hành uẩn thô, hoặc hành uẩn vi tế, hoặc hành uẩn thấp hèn, hoặc hành uẩn cao quý, hoặc hành uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc hành uẩn nào sinh ở nơi gần. Vậy các con nên biết bằng trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật tánh của tất cả hành uẩn ấy rằng:

Hành uẩn ấy không phải của ta.

Hành uẩn ấy không phải ta.

Hành uẩn ấy không phải tự ngã của ta.

5) Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ nơi thức uẩn.

Vì vậy, này chư Tỳ-khưu, những thức uẩn nào đã sinh trong thời quá khứ, sẽ sinh trong thời vị lai, đang sinh trong thời hiện tại, hoặc thức uẩn bên trong của mình, hoặc thức uẩn bên ngoài (của người khác), hoặc thức uẩn thô, hoặc thức uẩn vi tế, hoặc thức uẩn thấp hèn, hoặc thức uẩn cao quý, hoặc thức uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc thức uẩn nào sinh ở nơi gần. Vậy các con nên biết bằng trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật tánh của tất cả thức uẩn ấy rằng:

Thức uẩn ấy không phải của ta.

Thức uẩn ấy không phải ta.

Thức uẩn ấy không phải tự ngã của ta.

Trí tuệ thiền tuệ nhàm chán trong ngũ uẩn.

Này chư Tỳ-khưu, thực tánh của ngũ uẩn như vậy, bậc Thánh Thanh Văntrí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ ngũ uẩn đúng theo thật tánh, nên phát sinh trí tuệ thiền tuệ nhàm chán trong sắc uẩn, nhàm chán trong thọ uẩn, nhàm chán trong tưởng uẩn, nhàm chán trong hành uẩn, nhàm chán trong thức uẩn.

Khi trí tuệ thiền tuệ nhàm chán trong ngũ uẩn, nên tâm xả ly tham ái, do tâm xả ly tham ái nên chứng đắc Arahán Thánh Đạo, giải thoát khỏi mọi tham ái phiền não.

Trí tuệ quán xét biết rõ rằng: “Arahán Thánh Quả đã giải thoát hoàn toàn mọi phiền não trầm luân”.

Trí tuệ quán xét biết rõ rằng: “Không còn phải tiến hành pháp hành Bát Chánh Đạo nữa, mọi phận sự của Tứ Thánh Đế đã hoàn thành xong, phạm hạnh cao thượng đã hoàn thiện. Kiếp này là kiếp chót, không còn tái sinh kiếp nào nữa”.

Nhóm 5 Tỳ-khưu thành bậc Thánh Arahán

Đức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh Vô Ngã Tướng này xong, nhóm 5 Tỳ-khưu vô cùng hoan hỷ với lời giáo huấn của Đức Thế Tôn.

Trong khi Đức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh này, nhóm 5 Tỳ-khưu tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng đắc Arahán Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, không còn chấp thủ trong ngũ uẩn này nữa.

(xong bài kinh Vô Ngã Tướng).

* Giải thích danh từ trong bài kinh Vô Ngã Tướng

* Ý nghĩa danh từ Anattā

Định nghĩa danh từ anattā như sau:

Na attā anattā, natthi attā etassa khandhapañcakassā ti anattā.

Tất cả các pháp không phải ta, không phải của ta là pháp vô ngã, hay ngũ uẩn ấy không phải ta, không phải của ta cũng là pháp vô ngã.

Ý nghĩa anattā: Vô ngã ở đây là phủ định attā: Ngã, ngã sở (theo quan niệm tà kiến).

Trong bộ Ṭīkā giải thích danh từ anattā: Vô ngã có 4 ý nghĩa sau:

Avasavattanaṭṭha: Vô ngã có nghĩa là không chiều theo ý muốn của một ai.

Asāmikaṭṭha: Vô ngã có nghĩa là vô chủ, không có ai làm chủ.

Suññataṭṭha: Vô ngã có nghĩa là không, không phải ta, không phải của ta.

Attapaṭikkhepaṭṭha: Vô ngã có nghĩa là phủ nhận cái ngã, cái ta, cái đại ngã.

Anattā attā trong bài kinh Anattalakkhaṇasutta (Vô Ngã Tướng) có ý nghĩa hoàn toàn ngược lại nhau.

Anattā: Vô ngã, ngũ uẩn này không chiều theo ý muốn của ai.

Attā: Ngã, ta muốn ngũ uẩn được như thế này, không muốn ngũ uẩn như thế khác v.v... chiều theo ý muốn của ta. Nhưng thật tánh của ngũ uẩn này là vô ngã không chiều theo ý muốn của ai.

Attā: Nghĩa là ta, ngã do tà kiến theo chấp sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn hoặc danh pháp, sắc pháp cho là ta (ngã), tự ngã; ngã mạn theo chấp ta; tham ái theo chấp của ta.

Ngoài ra, attā còn có ý nghĩa khác.

* Ý nghĩa danh từ attā.

Theo trong bộ tự điển Abhidhāna: tự điển từ ngữ Pāḷi câu kệ 861 danh từ attā ý nghĩa rằng:

Citte kāye sabhāve ca, so attā paramattani.

Danh từ attā có 4 ý nghĩa: tâm, thân, thực tánh phápNgã tối thượng (đại ngã).

Giải thích:

1- Attā ý nghĩa citta: tâm.

Ví dụ:

Attasammāpaṇidhi: Đặt để tâm đúng trong thiện pháp, tâm mong muốn chân chính.

Attamicchāpaṇidhi: Đặt để tâm sai lầm trong ác pháp, tâm mong muốn sai lầm.

“Sabbe sattā bhavantu sukhitattā”.
“Cầu mong tất cả chúng sinh tâm thường được an lạc”.

“Attā hi kira duddamo”.
“Thật vậy, dạy được tâm mình là khó lắm!”

“Attānam damayanti panditā”.
“Chư bậc thiện trí rèn luyện, dạy tâm”...

Attā ở đây có ý nghĩa tâm.

2- Attāý nghĩakāya: Thân thể.

Ví dụ:

Đức Phật ban hành những giới của Tỳ-khưu ni, trong đó có giới như:

“Yā pana bhikkhunī attānam vadhitvā vadhitvā rodheyya pācittiyam ”.
Tỳ-khưu ni nào tự đấm vào thân mình rồi khóc, Tỳ-khưu ni ấy phạm āpatti pācittiya (ứng đối trị)”.

“Attā hi attano natthi,
Kuto puttā kuto dhanam?”
.
“Chính thân này, còn không phải của ta..., thì thử hỏi con của ta, của cải của ta làm sao có được?...”

Attā ở đây có ý nghĩa thân thể.

3- Attāý nghĩasabhāva: Thực tánh pháp.

Ví dụ:

“Attā hi attano nātho,
 Ko hi nātho paro siyā”.
“Chính thiện pháp là nơi nương nhờ chân chánh của ta, ngoài thiện pháp ra, có ai là nơi nương nhờ của ta được?”

“Attadīpā bhikkhave, viharatha attasaranā anannasaranā”.
“Này chư Tỳ-khưu, các con nên sống, chính thiện pháp là hòn đảo, chính thiện pháp là nơi nương nhờ, không nên có nơi nương nhờ nào khác”...

Attā: Ta ở đây có nghĩa là thực tánh pháp. Đó tam giới thiện pháp, Siêu tam giới thiện pháp, là nơi nương nhờ chân chính của ta.

4- Attāý nghĩaParama attā: Ngã Tối Thượng, Đại ngã, theo tà kiến của ngoại đạo.

Nhóm ngoại đạotà kiến cho rằng: “Tất cả vạn vật, vũ trụ này do Parama attā tạo ra, gọi là Ngã Tối Thượng, Đấng Tạo Hóa”.

Parama attā: Ngã Tối Thượng, đại ngã theo tà kiến của nhóm ngoại đạo này, ý nghĩa nghịch với anattā: Vô ngã trong giáo pháp của Đức Phật.

Như vậy, trong 4 ý nghĩa của attā, có 3 ý nghĩa tâm, thân, thực tánh pháp thuộc về chánh kiến, còn Parama attā: Ngã Tối Thượng, đại ngã theo quan niệm của nhóm ngoại đạo thuộc về tà kiến mà thôi.

Attāditthi: Tà kiến chấp ngã, hoặc attānuditthi: Tà kiến theo chấp ngã tà kiến thấy sai, hiểu lầm, chấp lầm từ sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cho là ta, hoặc tà kiến thấy sai, chấp lầm từ danh pháp cho là ta là ngã, hoặc từ sắc pháp cho là ta là ngã, cũng ở trong ý nghĩa tà kiến này.

4 ý nghĩa attā:

- Attā nghĩa là tâm.

- Attā nghĩa là thân.

- Attā nghĩa là thực tánh pháp.

Cả 3 ý nghĩa attā này thuộc trong Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma) là pháp có ý nghĩa chân thật, có chi pháp, có thức tánh rõ ràng, trí tuệ thấy đúng biết đúng thuộc về chánh kiến.

- Attā có nghĩa khác là ngã, ta... do tà kiến thấy sai, chấp lầm trong ngũ uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn bên trong của mình cho là ta, là ngã và tà kiến thấy sai, chấp lầm ngũ uẩn bên ngoài (của người khác) chúng sinh khác cho là người, chúng sinh v.v...

Đó là tà kiến chấp ngã (attadiṭṭhi) hoặc tà kiến theo chấp ngã (attānudiṭṭhi) thông thường đối với hạng phàm nhân.

Tà kiến chấp ngã đặc biệt của các nhóm ngoại đạo cho là cái ngã tối thượng, đại ngã (parama attā) thường tồn bất diệt, chính cái ngã tối thượng này tạo thiên lập địa, tạo ra mọi chúng sinh muôn loài, muôn vật trong thế gian. Và tà kiến chấp ngã trong mỗi chúng sinh có cái sinh mạng tự ngã (jīva attā) có khả năng hành động nói năng, suy nghĩ, đi, đứng, ngồi nằm v.v... Đó chỉ là tà kiến thấy sai, chấp lầm, chấp ngã mà thôi.

Ý kiến bạn đọc
26 Tháng Sáu 202023:04
Khách
Chánh pháp của thậm thâm vi diệu không thể nghĩ bàn. Con nguyện đời đời kiếp kiếp sinh ra gặp được Phật, nghe được Pháp, sống cùng Tăng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7908)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 4968)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 5639)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 7746)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 7221)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 6076)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 48361)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 4649)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 5968)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 6434)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 4982)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 5377)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 5294)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 8917)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 4215)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 4834)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 7451)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 5454)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 9772)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 6075)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 6493)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 9837)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 4501)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 16870)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 5784)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 5623)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 6029)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 5439)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 7131)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 9973)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 5714)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 5849)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 7140)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 5558)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 6271)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 4976)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 5629)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 6104)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 7116)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 5329)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 5711)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 5802)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 6595)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 5957)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 5705)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 5380)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 6633)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 5979)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 8259)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 6003)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 6511)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 5827)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 6716)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 7559)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 5256)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 5542)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 6461)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 7159)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 4645)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 6219)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
Quảng Cáo Bảo Trợ
AZCMENU Cloudbase: Giải pháp TV Menu thông minh, tiện lợi, chuyên nghiệp!
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM