Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Tài Liệu Tham Khảo & Phụ Lục

20 Tháng Hai 201300:00(Xem: 9275)
4. Tài Liệu Tham Khảo & Phụ Lục

Niên Biểu Phật Giáo Việt Nam

Trần Tri Khách


4. Tài Liệu Tham Khảo & Phụ Lục


1- Phạm Văn Sơn (1960), Việt Sử Toàn Thư (viết tắt VSTT), California: Ðại Nam in lại, không ghi năm tái bản.
2- Nguyễn Quốc Thắng & Nguyễn Bá Thế, Từ Ðiển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam (viết tắt TÐNVLS), thành phố HCM: nhà xuất bản Văn Hóa in lần thứ tư, 1997
3- Lê Mạnh Thát , Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (viết tắt LSPGVN), tập 1, Huế: nhà xuất bản Thuận Hóa, 1999. Tập 2 , thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 2000.
4- Lê Mạnh Thát, Nghiên Cứu Về Thiền Uyển Tập Anh (viết tắt TUTA), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 1999.
5- Lê Mạnh Thát, Toàn Tập Minh Châu Hương Hải (viết tắt MCHH), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 2000.
6- Lê Mạnh Thát, Toàn Tập Trần Nhân Tông (viết tắt TTTNT), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 2000.
7- Nguyễn Lang (Nhất Hạnh), Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (viết tắt VNPGSL). Tập 1 (1973), Paris: Lá Bối in lần thứ hai năm 1977. Tập 2, Paris: Lá Bối, 1978. Tập 3, Paris: Lá Bối, 1985.
8- Trần Hồng Liên, Phật Giáo Nam Bộ từ thế kỷ 17 đến 1975 (viết tắt PGNB), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 1996.
9- Thích Ðức Nhuận , Ðạo Phật và Dòng Sử Việt (viết tắt ÐPVDSV)
10- Kiêm Ðạt, Ðại Giới Ðàn Thiện Hòa, California: Phật Học Viện Quốc Tế, 1983.
11- Thích Mật Thể (1943), Việt Nam Phật Giáo Sử Lược , California: Phật Học Viện Quốc Tế in lại 1984.
12- Ðông Tiến, Việt Nam 20 Năm 1975- 1995, San Jose: Cơ Sở Ðông Tiến, 1996.
13- Phúc Trung , Lược Sử Gia Ðình Phật Tử, trang nhà Người Cư Sĩ : http://membres.lycos.fr
14- Cung Ðình Thanh, Nguyễn Văn Tuấn và Nguyễn Ðức Hiệp, Một Vài Ghi Chép Thêm Về Văn Minh Cổ Và Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam, trang nhà www.giaodiem.com, tháng 8. 2002.


PHỤ LỤC 1:

CÁC DANH TƯỚNG CỦA HAI BÀ TRƯNG ÐƯỢC THỜ TẠI CÁC ÐỀN MIẾU NƯỚC TA CHO TỚI NGÀY NAY

(Tham khảo: Ðông Tiến, Nước Tôi Dân Tôi, San Jose: Cơ Sở Ðông Tiến, 1989 - Nguyễn Quyết Thắng & Nguyễn Bá Thế, Tự Ðiển Nhân Vật Lịch Sử VN, Thành phố HCM: nhà xuất bản TP/HCM in lần thứ 4, 1997 )
- Ðền thờ ở làng Ðồng Nhân, Hà Nội: thờ tượng Hai Bà và tượng 12 vị nữ tướng.
- Ðền Hai Bà Trưng ở huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên (kinh đô Mê Linh cũ).
- Ðền thờ Hai Bà Trưng ở làng Hát Môn, tỉnh Phú Thọ, các đồ thờ đều sơn màu đen tuyền. Trước đền là bàn thờ bà hàng bán bánh trôi đã đi theo phò giúp Trưng Vương.
- Các huyện gần sông Hát Giang (sông Ðáy) như Phú Thọ, Thạch Thất, Quốc Oai tỉnh Sơn Tây có đền miếu thờ các vị anh hùng liệt nữ thời Trưng Vương như: Thượng Cát, Bạch Hoa Công Chúa, Ðào Khang, Hoàng Ðạo, Ðỗ Năng Tế, Giám Sát Ðại Vương, Ả Tú, Ả Huyền, Nhất Trung Á, Mai Thi Trang, Chàng Năm, Nàng Năm, Thủy Hải Công Chúa ...

- Các huyện gần sông Ðáy (Hát Giang) tỉnh Hà Nam như Thanh Liêm, Kim Bảng có đền miếu thờ các anh hùng thời Trưng Vương như: Cao Bà Văn Tổ, Hảo Nương, Lưu Nương, Quách Thị, Khoan Nhân Ðại Vương,Vạn Phúc Phu Nhân, Lê Hằng Nghị, bà Tái Kênh, Linh Bảo Nương, Ngọc Dung Công Chúa, Ngọc Nhân, Nguyễn Phúc, Nguyễn Dung, Nguyễn Phúc Tính, Nguyệt Nga, Ông Ðốc, Quỳnh Anh Phu Nhân ...

- Ðền làng Trung Am, tỉnh Hải Dương thờ một vị tướng của Trưng Vương tử trận ở Lạng Sơn.
- Ðền thờ ông Tam Giang, một tướng giỏi của Hai Bà tại làng Bần Yên Nhân, tỉnh Hưng Yên.
- Ðền thờ bà Lê Chân ở Ngõ Nghè, Hải Phòng (nên còn gọi là Ðền Nghè).
- Ðền làng Tiên La, tỉnh Thái Bình, thờ bà Bát Nàn ( còn gọi là Bát Nàn Công Chúa, Bát Nàn Phù Tướng).
- Ðền làng Hiền Quan, tỉnh Phú Thọ thờ bà Hoàng Thiếu Hoa ( còn gọi là bà Thiều Hoa, Ðông Cung Tướng Quân).
- Ở tỉnh Phú Thọ cũng thờ danh tướng Ðô Dương. Ông có công lớn nhất trong việc giải phóng 65 thành trì năm 39. Năm 43, ông là người chỉ huy chiến tuyến sau cùng chống lại đại quân của Mã Viện ở Thanh Hóa sau khi Trưng Vương trầm mình xuống sông Hát.
- Ở Sơn Tây thờ Thị Nội Tướng Quân Phùng Thị Chính và chồng bà là Ðinh Lượng. Bà Phùng Thị Chính võ nghệ cao cường, đánh giặc hăng say, sanh con ngay trên mình ngựa, quân địch khâm phục tôn là Mã Thị Nam Chinh. Khi Trưng Vương trầm mình xuống sông Hát, bà cũng tử tiết. Chồng bà là Ðinh Lượng, một hào kiệt giỏi võ nghệ theo phò Trưng Vương cũng bỏ mạng trong trận chiến cuối cùng với Mã Viện
Tại năm tỉnh miền Nam Trung Quốc (Quảng Ðông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên) có hơn 100 đền miếu thờ các danh tướng của Hai Bà Trưng, theo kết quả quan sát thực địacủa bác sĩ Trần Ðại Sĩ. Bản báo cáo này của ông được phổ biến trên trang nhà Internet www.thuvienvietnam.org mục tạp chí Thư Viện Việt Nam số 3. Vùng đất này, trong nhiều thế kỷ qua, chiến tranh xảy ra liên miên, gương hào hùng hẳn nhiên phải có mà đền miếu thì không sao tránh khỏi bị tàn phá,sụp đổ. Nếu các anh hùng liệt nữ thời Trưng Vương không tạo được chiến công hiển hách, oai hùng, sẽ chẳng ai nghĩ tới chuyện tu bổ lại đền miếu để thờ phượng tới ngày nay.
Thời Trưng Vương là thời thịnh trị của nhà Hán, sau khi Hán Quang Vũ thống nhất được Trung Quốc. Mã Viện (17 BC- 44) là một tướng giỏi, nhiều kinh nghiệm chiến trường của nhà Hán, vậy mà ông phải chuẩn bị lực lượng từ mùa xuân năm 42 tại các Quận phía Nam Trung Quốc và phải một năm sau mới hoàn thành cuộc tấn công. Một điểm cần nói thêm: Mã Viện thọ 62 tuổi, cho nên không có chuyện ông cầm quân đánh bại Trưng Vương vào năm 70 tuổi như ghi trong một số sử sách nước ta.


PHỤ LỤC 2:

BƯỚC ÐẦU ÐẠO PHẬT DU NHẬP VÀO NƯỚC TA

quan niệm lầm lẫn cho rằng nước ta bắt đầu có văn hiến là nhờ hai thái thú Tích Quang (năm 2) và Nhâm Diên (năm 24), lại thấy kinh điển Phật Giáonghi thức tụng niệm ở nước ta mang gốc gác chữ Hán, một số đáng kể các nhà biên khảo Phật giáo kết luận vội vã là đạo Phật du nhập vào nước ta từ Trung Quốc, bắt đầu vào thời Sĩ Nhiếp (cuối thế kỷ 1).

Thực ra mãi tới năm 67, khi vua Hán Minh Ðế (58- 76) nằm mộng thấy người vàng, cận thần Trương Nghị giải thích người vàng thân thểhào quang bay trên không đó là người đắc đạo ở nước Thiên Trúc gọi là Phật; vua mới cử một phái đoàn qua nước Ðại Nhục Chi thỉnh được kinh Tứ Thập Nhị Chương và mời được hai vị tăng Ma Ðằng Ca DiếpTrúc Pháp Lan. Trong mấy thế kỷ đầu, hoạt động của Phật Giáo Trung Quốc chủ yếu là dịch kinh, xây chùa. Mãi tới năm 258 sư Châu Tử Hàng khai đàn, giảng kinh Bát Nhã ở kinh đô Lạc Dương, việc giảng pháp cho đại chúng Trung Quốc mới bắt đầu.

Ở nước ta, người Phật tử đầu tiên là Chử Ðồng Tử, đời Hùng Vương thứ 18 (chấm dứt vào năm 258 BC) được nhà sư Phật Quang (còn gọi là sư Bần, người gốc Ấn Ðộ) truyền pháp, trao cho cây gậy và chiếc nón. Tích này được ghi lại trong Lĩnh Nam Chích Quái. Chử Ðồng Tử được thờ ở đền Trung, trong cụm đền thờ vua Hùng tại núi Nghĩa Lĩnh, tỉnh Phú Thọ và ở phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Chử Ðồng Tử là thương gia buôn bán đường sông, quen biết nhiều. Sau khi truyền pháp cho vợ là công chúa Tiên Dung, hai người bỏ hẳn việc buôn bán mà lo mở rộng việc truyền pháp.

Mặt khác, cũng có những bằng cớ về việc phái đoàn truyền giáo dưới sự hướng dẫn của Sona và Uttara do vua A Dục phái đi đã tới nước ta. Nhân dân ta đã dựng tháp tại thành Nê Lê ở núi Mẹ tại Ðồ Sơn để tạ ơn vua A Dục (269 BC- 232 BC) đã truyền Phật pháp tới Luy Lâu. Cho tới những năm 380- 420, những người lượm củi ở vùng núi Mẹ (Mẫu Sơn) còn thấy tháp này. Thiền sư Mật Thể trong Việt Nam Phật Giáo Sử Lược (tr.69) cho biết từ năm 245 BC Trung Quốc và Ấn Ðộ đã giao thương với nhau qua cửa ngõ nước ta. HT Ðức Nhuận trong Ðạo Phật Và Dòng Sử Việt: vào thế kỷ 3 BC, phong trào di dân rộng lớn tại Ấn từ Kalinga sang phía Ðông rồi xuống Nam vì "cơn sốt " mua bán vàng có thể đưa một số tăng sĩ Ấn Ðộ theo thuyền buôn tới nước ta. Có thể sự thông thương giữa Ấn Ðộ và nước ta đã xảy ra trước đó khá lâu. Năm 135 BC, Hoài Nam Vương Lưu An dâng thư can ngăn vua Hán đừng đem quân đánh Nam Việt, có viết: Từ thời Tam Ðại, đất Hồ đất Việt không theo lịch pháp Trung Quốc. Thời Tam Ðại gồm nhà Hạ (2140 BC- 1711 BC), nhà Thương hay nhà AÂn (1711 BC- 1066 BC) và nhà Chu (1066 BC- 256 BC). Theo Lê Mạnh Thát (LSPGVN 1) và Nhất Hạnh (VNPGSL 1), thời đó nước Văn Lang theo lịch pháp Ấn Ðộ (năm có 4 mùa, 12 tháng, tháng có 30 ngày).

Sự kiện dân ta gọi Thích Ca là BỤT, phổ thông trong ca dao còn truyền tụng tới ngày nay, là bằng chứng vững chắc khác cho thấy Phật Giáo du nhập vào Việt Nam trước tiên qua ngả Ấn Ðộ. Phật là một từ do pháp sư Trung Quốc Huyền Tráng tạo ra khi dịch kinh Phật vào thế kỷ 7. Lê Mạnh Thát ( Lịch Sử Phật Giáo VN tập 1) còn đi xa hơn, đưa ra giả thuyết Lục Ðộ Tập Kinh trước tiên được dịch từ chữ Phạn qua chữ Việt cổ, Khương Tăng Hội đã tham chiếu bản dịch chữ Việt này để dịch qua chữ Hán.

Bằng chứng nữa: khi vua Tùy Văn Ðế (589- 601) phục hưng đạo Phật Trung Quốc rồi, muốn truyền bá Phật pháp tới Giao Châu, sư Ðàm Thiên tâu : Giao Châu có đường thẳng thông với Thiên Trúc.Khi đạo Phật mới tới Giang Ðông chưa đầy đủ thì ở Luy Lâu của Giao Châu đã có hơn 20 ngôi bảo sát (chùa), độ được hơn 500 vị tăng, dịch 15 cuốn kinh. Năm 255, Khương Tăng Hội (sau khi thọ đại giới tại nước ta) vào đất Ðông Ngô, lập am tranh thờ tượng Phật, bị quan chức Trung Quốc cho là kỳ lạ báo cho vua Ðông Ngô là Tôn Quyền. Nếu đạo Phật đã có mặt tại đây vào thời điểm này, có lẽ Khương Tăng Hội không bị những thử thách có thể mất mạng mới được phép hoằng dương Phật pháp.

Phật Giáo tại nước ta đã có chùa Liên Trì đã được xây từ thời Hùng Vương ( trước 258 BC). Năm 544, vua Lý Nam Ðế dựng chùa Khai Quốc trên nền cũ của chùa Liên Trì. Chùa Trúc Viên ở núi Sài Sơn (tỉnh Sơn Tây) đã có mặt từ thời tể tướng Lữ Gia của nhà TRiệu (năm 110 BC). Ngôi chùa đầu tiên tại Trung Quốc là chùa Bạch Mã ở kinh đô Lạc Dương xây cất khoảng năm 68 để làm chỗ Ma Ðằng Ca DiếpTrúc Pháp Lan chứa kinh và dịch kinh do ngựa trắng chở từ nước Ðại Nhục Chi về.

Năm 39, hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng đứng lên đánh đuổi tên thái thú nhà Hán tàn bạo Tô Ðịnh, sư cô Thiều Hoa rời khỏi chùa, mộ được 500, trở thành tướng tiên phong của Trưng Vương. Trưng Vương dẹp xong 65 thành trì, thâu hồi độc lập cho đất nước, sư cô Thiều Hoa lại trở về chùa làng Hiền Quan tiếp tục tu. Bà sinh năm 3, xuất gia năm 16 tuổi sau khi cha mẹ đều mất. Bà tịch năm 40. Năm 43, sau trận đánh cuối cùng ở Cẩm Khê, Hai Bà trầm mình xuống sông Hát, cuộc khởi nghĩa của TRưng Vương chấm dứt, một số tướng lãnh của Hai Bà nương mình nơi cửa Phật. Trong đó có Bát Nàn Phu Nhân. Tướng nhà Hán là Mã Viện tiến hành một cuộc thanh trừng quy mô, thậm chí bắt lưu đày dân cả một vùng Ðông Việt vào đất Giang Hoài và tìm bắt các người có khả năng lãnh đạo mà y gọi là "chủ soái" lưu đày ra Linh Lăng. Phật Giáo nước ta thời đó hẳn có tổ chức chặt chẽ mới che chở được những tăng ni mới và tồn tại được sau chiến dịch đồng hóa quy mô và gắt gao của Mã Viện, một kẻ chưa hề nghe nói tới Phật.

Như vậy Ni giới nước ta đã có mặt từ trước năm 39. Hẳn nhiên khi sư cô Thiều Hoa (còn gọi là Hoàng Thiếu Hoa) rời chùa đi cứu nước mà chỉ trong thời gian ngắn mộ được 500 quân thì phải hiểu là đạo hạnh của bà đã có sức thuyết phục đại chúng từ trước đó. Tại Trung Quốc, mãi tới năm 429 mới có một ni đoàn từ Tích Lan tới Kiến Nghiệp học chữ Hán để hướng dẫn ni chúng người Hoa.

Tăng đoàn nước ta cho tới cuối thế kỷ 2 đã được phát triển khá mạnh. Các đại sư và kinh sách của trung tâm Luy Lâu ít nhất đã đào tạo được hai nhân vật kiệt xuấtMâu TửKhương Tăng Hội.
Mâu Tử (khoảng 160- khoảng 230) người Thương Ngô, ham đọc đủ loại sách, thường đem Ngũ Kinh của Nho giáo ra vặn hỏi các Nho gia. Năm 180, thiên hạ loạn lạc, Mâu Tử đưa mẹ tới Giao Chỉ lánh nạn. Có lẽ ông bắt đầu để ý tới Phật pháp tại Luy Lâu từ năm 183. Năm 26 tuổi về Thương Ngô cưới vợ, lộ trình dài tới 5 ngàn dặm. Ít lâu sau mẹ mất, nghĩ thời thế nhiễu nhương, bèn dốc chí nghiên cứu đạo Phật tại Luy Lâu. Ông viết Lý Hoặc Luận năm 198 để trả lời những người quen biết chỉ trích ông phản bội Nho mà theo Phật. Theo Lê Mạnh Thát (Tổng tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam 1, tr. 26) Lý Hoặc Luận từng là sách gối đầu giường của giới học Phật ở Trung QuốcNhật Bản. Ðây là sáng tác lý luận Phật Giáo đầu tiên bằng Hán văn, trình bày khả năng của Phật Giáo có thể thay thế Nho Giáo trong mọi lãnh vực xử thế.

Khương Tăng Hội (khoảng 200- 280) sinh ra, lớn lên, xuất gia và được thọ giới theo nghi thức "Tam Sư, Thất Chứng" tại Giao Châu. Mối liên hệ thầy trò trong tăng đoàn thắm thiết tới mức nhiều năm sau khi ba thầy tịch, Khương Tăng Hội vẫn còn thương tiếc. Tại Trung Quốc, tới năm 258 sư Ðàm Ma Ca La từ Trung Ấn tới Lạc Dương tổ chức truyền giới theo nghi thức "Tam Sư Thất Chứng", nghi thức này mới được bắt đầu tại Trung Quốc. Năm 247 Khương Tăng Hội chống gậy, vân du qua Ðông Ngô (Trung Quốc) hoằng pháp. Pháp sư An Thế Cao, dịch giả kinh An Ban Thủ Ý, ca ngợi ông là người giảng kinh Thiền xuất sắc. Năm 258, vua Ðông Ngô Tôn Lâm phá chùa, giết sư, bị Tôn Hạo giết rồi nối ngôi. Khương Tăng Hội góp công lớn phục hồi Phật Giáo Ðông Ngô. Tại Ðông Ngô, ông dịch 14 quyển kinh ra Hán văn, trong đó có Lục Ðộ Tập Kinh. Sư ông Nhất Hạnh suy tôn Khương Tăng Hội là tổ Thiền Tông Việt Nam, mặc dù phần đóng góp chính yếu của ông là cho Phật Giáo Trung Quốc.

Khương Tăng Hội không phải là thí dụ duy nhất cho thấy từ khởi nguyên, Phật Giáo VN đã là chỗ dựa của Phật Giáo Trung Quốc. Ðầu thế kỷ 4, nhiều tăng sĩ Trung Quốc tìm đến chùa Tiêu Sơn ( Bắc Ninh) cầu học về Tịnh Ðộ, sau đó trở về Trung Quốc hoằng dương pháp môn này. Sư Ðàm Thiên (542- 607) sau khi thâu đạt về Duy Thức Học và Nhiếp Ðại Thừa Luận tại Luy Lâu đã giúp vua Tùy Văn Ðế phục hồi Phật Giáo Trung Quốc.

Tóm lại, từ khởi nguyên Phật Giáo du nhập vào nước ta từ Ấn Ðộ. Phật Giáo Ấn Ðộ đã truyền tới nước ta trước khi tới Trung Quốc. Trong những thế kỷ đầu, Phật Giáo VN đã là chỗ dựa cho Phật Giáo Trung Quốc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5476)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10548)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6106)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9380)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6440)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 6006)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7514)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7336)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5224)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8119)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5943)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9657)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7426)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7458)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6247)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5328)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5879)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5682)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3976)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5723)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4102)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7539)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5734)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21962)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5661)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7113)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5055)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6462)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5836)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5026)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7073)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6064)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5589)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5904)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 6030)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6857)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6449)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6096)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6517)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6212)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6404)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5632)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6932)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4575)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7802)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6067)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7321)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7749)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5515)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5165)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5701)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5556)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5536)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5031)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4297)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6067)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5649)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6302)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8540)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant