Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đạt Lai Lạt Ma tại Harvard & Nhập Trung Đạo Cương Yếu

16 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 21151)
Đạt Lai Lạt Ma tại Harvard & Nhập Trung Đạo Cương Yếu


ĐẠT LAI LẠT MA TẠI HARVARD 
& NHẬP TRUNG ĐẠO CƯƠNG YẾU

Chân Nguyên dịch

blank

Vài nét về bản dịch Việt ngữ

 Về nội dung

 

blankSách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ và Nhập trung đạo cương yếu — một tiểu luận về Tính không được Đạt-lại Lạt-ma đích thân biên soạn bằng Tạng ngữ.

Phần đầu được dịch từ hai bản ngoại ngữ, bản Anh ngữ của giáo sư Hopkins dưới tựa »The Dalai Lama at Harvard — Lectures on the Bud­dhist Path to Peace« (Snow Lion Publications, Ithaca New York 14851, USA 1988) và bản dịch từ Anh sang Đức ngữ dưới tên »Ein­füh­rung in den Buddhis­mus — Die Harvard Vor­lesungen« của Chris­tof Spitz (»Phật học nhập môn — Các khóa trình tại Harvard«, Herder Ver­lag, Freiburg im Breisgau, 1993; cũng có tựa khác là »Die Vorträge in Har­vard«, »Các khóa trình tại Harvard«, Aquamarin Verlag, Grafing, 1991). Vì những điểm khó hiểu, cực kì phức tạp của các vấn đề được Đạt-lại Lạt-ma trình bày nên dịch giả người Việt phải sử dụng cả hai bản dịch để có thể hiểu và trình bày tinh xác hơn.

Trong bản Anh và Đức ngữ có một điểm bất đồng rất lớn giữa những đoạn văn mà trong đó, Đạt-lại Lạt-ma trình bày, diễn giảng rất trực tiếp, rất cụ thể, dễ hiểu — thậm chí khôi hài —, và những đoạn văn cực kì phức tạp, trình bày triết lí Tính không, Nhận thức học, Tâm lí học Phật giáo, những điểm mà độc giả chỉ có thể thông hiểu được khi đã đọc đi đọc lại nhiều lần một đoạn văn và làm quen với cách sử dụng thuật ngữ hết sức tinh tế của Đạt-lại Lạt-ma. Thỉnh thoảng dịch giả phải biến đổi cấu trúc của văn bản để có thể trình bày bằng Việt ngữ một cách thích hợp.

Chính vì những điểm hết sức phức tạp của phần đầu mà dịch giả quyết định đưa thêm vào tiểu luận Nhập trung đạo cương yếu với mục đích làm sáng tỏ những đoạn văn trùng phức, tối nghĩa trong phần đầu. Nhập trung đạo cương yếu có tên Tạng ngữ »dbu ma'i lde mig«, Jürgen Manshardt (Tỉ-khâu Dscham­pa Dönsang) dịch sang Đức ngữ dưới tên »Der Schlüssel zum Mittleren Weg«, được Trung tâm Tây Tạng (Tibe­tisches Zentrum e. V. Hamburg) tại Cộng Hòa Liên Bang Đức xuất bản. Độc giả nào muốn tham khảo phần này bằng Anh ngữ có thể sử dụng bản dịch của giáo sư J. Hopkins dưới tên »The Buddhism of Tibet and The Key to the Middle Way« (Unwin Hyman, London, Eng­land).

Về dịch thuật

Ghi chú ở cuối mỗi chương trong phần Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard được giáo sư Hopkins thực hiện. Ghi chú của dịch giả người Việt cũng như dịch giả người Đức được đánh dấu riêng và ghi trong ngoặc. Cước chú trong cả hai phần được dịch giả người Việt đưa vào.

Để tránh trường hợp gây phức tạp thêm những gì vốn đã khó hiểu, trong phần đầu, dịch giả không ghi thêm những thuật ngữ Phạn hoặc Tạng ngữ tương ưng trong chính bản văn mà chỉ thêm vào dưới dạng cước chú — trong trường hợp chúng chưa được giáo sư J. Hopkins lưu ý đến trong tổng mục ghi chú sau mỗi chương. Trong phần hai và Từ vị, dịch giả mạnh dạn đưa vào những thuật ngữ ngay trong chính bản — chúng được được ghi trong ngoặc đơn và viết nghiêng —, vì quan niệm phần này dành cho những người muốn tìm hiểu thêm, đã thông thạo một vài thuật ngữ ở đây. Mục Từ vị và bảng đối hiếu thuật ngữ được dịch giả người Việt đưa vào để làm sáng tỏ thêm những gì được trình bày. Ai muốn tìm hiểu thêm về những thuật ngữ Phật giáo Tây Tạngthể tham khảo thêm quyển Từ Điển Phật Học của Nguyễn Tường Bách và dịch giả.

Những điểm cần được lưu ý:

1. Danh từ phenomenon của tiếng Anh (Phạn: dharma, Tạng: chos, Đức: Phä­nomen) được dịch là »hiện tượng« thay vì »pháp« (trong trường hợp nó không có nghĩa là Phật pháp) để dễ hiểutương ưng với ngôn ngữ phổ biến hiện nay. Nhưng thỉnh thoảng cũng được biến chuyển để câu văn được xuôi tai hơn.

2. Tính từ exact (Đức: exakt) và precise (Đức: präzis) được dịch là tinh xác, hai tính từ correct (Đức: korrekt) và valid (Đức: gültig) được dịch là chính xác (với ý nghĩa »đúng đắn [chính] và rõ ràng [xác]«), đúng đắn, có giá trịtùy theo trường hợp.

3. Một biểu thị rất quan trọng trong bản dịch này là Tồn tại trên cơ sở (bản) tự tính, được dịch từ danh từ inherent existence của Anh ngữ hoặc Đức ngữ in­här­ente Existenz. Danh từ Phạn ngữ tương ưng là svabhāvasiddhi. Svabhāva có nghĩa là »tự tính«, siddhi có nghĩa »thành tựu« hoặc »khởi lập«. Cả ba dịch giả, giáo sư J. Hopkins cũng như Ch. Spitz và J. Manshardt đều dịch svabhāvasiddhi từ đầu đến cuối sách là »inhe­rent existence (inhärente Exis­tenz)«. Tính từ »inhe­rent« có nghĩa là »nội tại«, »cố hữu« và như thế, »inherent existence« có nghĩa là một cách »Tồn tại trên cơ sở tự tính«. Trong một vài đoạn văn, dịch giả rất có thể dùng chữ »tự ngã«, »tự tính«, »bản tính«, hoặc »ngã« thay vào »Tồn tại trên cơ sở tự tính« — nhưng không thực hiện vì muốn trình bày bản dịch nhất quán và vì những nguyên do khác mà độc giả sẽ tự hiểu sau khi đọc dịch bản. »Tồn tại bởi tự tính«, »Tồn tại trên cơ sở cố hữu« là những biến dạng đồng nghĩa trong bản dịch này.

4. Dịch giả cố gắng trình bày tất cả bằng Việt ngữ, giảm thành phần thuật ngữ chữ Hán nhưng rất nhiều trường hợp, rất nhiều đoạn văn không cho phép. Ví dụ như trường hợp dịch chữ Anh ngữ continum of mind (Phạn ngữ: saṃtāna hoặc tantra). Nếu chỉ dịch đơn thuần là »dòng tâm thức« thì tất cả những khía cạnh, ý nghĩa của biểu thị continuum này không được trình bày trọn vẹn. Vì vậy dịch giả đành phải sử dụng thuật ngữ Hán việt rất tinh xác là »liên tục thống nhất thể (của tâm thức)«. Trong trường hợp không tránh được những thuật ngữ Hán việt đặc thù Phật giáo thì cước chú kèm theo sẽ làm sáng tỏ vấn đề hơn. Và ngược lại, trong trường hợp dịch giả biết rõ các thuật ngữ Hán việt tương ưng thì chúng sẽ được ghi thêm vào dưới dạng cước chú. Bảng đối chiếu thuật ngữ trong phần Từ vị có thể giúp độc giả xác định từ nguyên và cách dịch được áp dụng trong dịch phẩm này.

Cách phát âm Phạn và Tạng ngữ

Phạn ngữ được trình bày ở đây dưới dạng phổ biến nhất trong kinh sách Phật giáo nước ngoài. Sau đây là một vài qui tắc phát âm cơ bản, giản lược:

c
 như ch của Anh ngữ. Cakra được đọc như chakra

ṃ, ṅ
 phát âm gần như -ng, nhưng kéo dài một chút, ví dụ như saṃ-sā-ra như sang-sā-ra, kéo dài ng- với giọng mũi.


 phát âm như ri, đọc nhanh, phớt qua chữ y. Rajāgṛha đọc như ra-jā-gri-ha. Ṛddhi đọc như riddhi.

ś, ṣ
 như sh trong Anh ngữ, ś được phát âm mạnh hơn ṣ một chút, ś như (t)sh và ṣ như (d)sh. Śikṣāsamuucaya được đọc như shik-sh-sa-much-cha-ya.

ū
 đọc như u Việt ngữ kéo dài

ā
 đọc như a Việt ngữ kéo dài

ō
 đọc như ô Việt ngữ kéo dài

e
 đọc như ê Việt ngữ kéo dài

ī
 đọc như y Việt ngữ kéo dài

Những dấu chấm dưới các chữ sau có thể bỏ qua như ḍ, ḷ, ṭ, ṇ. Dh được đọc như d với chữ h thật nhanh phía sau như dhātu.

Trong độc bản, Tạng ngữ được trình bày dưới dạng Hán việt hoặc cách dịch âm Việt hóa, có thể đọc gần như tiếng Việt; trong cước chú, ghi chú và Từ vị được la-tinh hóa theo hệ thống của Turrell Wylie (xem thêm trong »A Stan­dard System of Tibetan Tran­scrip­tion«, Harvard Journal of Asiatic Studies, vol. 22, 1959, trang 261-267).

Viết tắt

engl.: Anh ngữ; ger.: Đức ngữ; jap.: Nhật ngữ; skrt.: Phạn ngữ; tibet.: Tạng ngữ; tk.: Thế kỉ;

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5478)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10551)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6107)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9380)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6444)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 6007)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7516)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7337)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5226)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8124)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5943)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9658)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7426)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7461)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6247)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5329)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5881)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5684)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3976)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5724)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4103)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7539)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5735)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21967)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5661)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7114)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5056)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6465)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5838)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5027)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7075)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6066)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5591)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5910)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 6033)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6860)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6449)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6096)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6517)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6212)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6404)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5632)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6933)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4575)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7803)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6069)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7323)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7750)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5520)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5166)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5702)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5559)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5539)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5035)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4300)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6072)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5650)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6302)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8542)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant