Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Các Trường Phật HọcNam Bộ Nửa Đầu Thế Kỷ 20

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 7610)
Các Trường Phật Học Ở Nam Bộ Nửa Đầu Thế Kỷ 20

CÁC TRƯỜNG PHẬT HỌCNAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ 20



Thích Minh Cảnh



Lâu nay nói đến các trường Phật họcNam Bộ, người ta thường nghĩ đến Phật học đường Nam Việt đặt tại chùa Ấn Quang quận 10, Sài Gòn chứ thật ra còn rất nhiều trường Phật học mở trước đó mà ít người biết đến.

 Đầu tiên phải kể đến trường Sông Tra, đặt tại chùa Linh Nguyên.

 Sông Tra ở đâu?

 Theo địa chí của tỉnh Long An thì sông Tra là một nhánh của sông Vàm Cỏ Đông chảy ngang quận lỵ Đức Hòa, thuộc tỉnh Long An hiện nay, còn chùa Linh Nguyên do tổ Minh Phương Chơn Hương làm trụ trì. Chùa thuộc thị trấn Đức Hòa nên hòa thượng lấy sông Tra đặt tên trường. Phải chăng ngài muốn cho pháp âm lưu bố cùng khắp như dòng sông mang nước đến mọi miền nó chảy đến.Đi kèm với lớp học chùa Linh Nguyên còn một lớp học song song ở chùa Long Thạnh (Bà Hom) do tổ Minh Hòa Hoan Hỷ trụ trì, đứng ra giảng dạy coi sóc.

 Nếu ở Linh Nguyên chuyên dạy kinh luận thì ở Long Thạnh chuyên dạy luật. Có thể nói Long Thạnh là chi nhánh của trường Sông Tra. Hai vị trên đều là đệ tử của Tổ Tiên Giác Hải Tịnh. Trường bắt đầu dạy từ năm 1900 đến 1915 mới ngưng nghỉ do hai vị trụ trì quá già yếu (Tổ Minh Hòa Hoan Hỷ tịch năm 1916 và Tổ Minh Phương Chơn Hương tịch năm 1919).

 Ban giáo thọ ngoài hai vị trụ trì hai chùa trên còn cung thỉnh hòa thượng Trừng Châu ở chùa Long Triều (chợ Đệm) và hòa thượng Hải Lương chùa Kim Cang (cầu Voi, Long An) giảng dạy.

 Học tăng của trường Sông Tra phần lớn là nội trú. Ta phải kể:

Như Nhãn Từ Phong

Như Trí Khánh Hòa

Đạt Thái Chánh Thành

Trừng Minh Huệ Mạng

Như Sơn Bửu Chung

Như Quới Pháp Ấn

Như Thông Đạt Thanh

Như Bằng Thanh An

 Đặc biệt chỉ có Như Bằng Thanh An (ở chùa Từ Ân) là học tăng ngoại trú. Sáng ra công phu xong khoảng 5 giờ phải lội bộ từ cầu Tre lên Linh Nguyên để kịp 8 giờ vào học. Chiều khoảng 4 giờ phải quay về chùa để kịp 7 giờ tối công phu thọ trì. Quãng đường từ chùa Từ Ân đến Linh Nguyên độ 20 km phải đi trong vòng 3 tiếng quả là phải có sức khỏe dồi dào với một nghị lực phi thường mới đến lui không mệt mỏi như vậy.

 Sau khi mãn khóa học ở trường Sông Tra các học tăng phân tán về chùa thầy tổ. Những người nổi tiếng phải kể đến:

 Như Nhãn Từ Phongpháp sư nổi tiếng cả Sài Gòn lục tỉnh, ngài để lại các tác phẩm: Phát bồ đề tâm văn diễn nghĩa, Quy nguyên trực chỉ diễn nghĩa, Tông cảnh yếu ngữ lục diễn nghĩa, v.v. (đều là tác phẩm diễn Nôm).

 Như Sơn Bửu Chung pháp sư nổi tiếng ở miền Tây, đã để lại các dịch phẩm: Nhập đạo yếu môn, Vạn pháp quy tâm lục, Phật học dị giải.

 Như Quới Pháp Ấn, đệ tử chùa Linh Nguyên, một học tăng trường Sông Tra, về sau lãnh chức trụ trì chùa Phước Tường (Thủ Đức), mở lớp học đào tạo các vị nổi tiếng sau này như: Bửu Ngọc (Phước Tường), Hồng Tín Huệ Thành (Long Thiền), Diệu Tịnh (Hải Ấn), Diệu Tánh Hồng Ân (Huê Lâm), Diệu Minh Hồng Huệ (Vĩnh Bửu), Diệu Tấn Hồng Lầu (Kim Sơn), v.v.

 Đạt Thái Chánh Thành (hòa thượng Vạn An) lấy nghĩa bằng chữ Nôm các bộ luật: Sa di luật giải, Qui Sơn cảnh sách, Tứ phần như thích, Di đà sớ sao, v.v.  Lối cắt nghĩa của hòa thượng vượt ngoài lối cắt nghĩa: chi chưng, bất chẳng, kỳ thửa, v.v. mà từ trước các Nho gia dùng để dạy học. Lối cắt nghĩa này, mở ra một lối mới, khiến cho người đọc dễ hiểu hơn, tiếp cận với lối nói thông thường của văn học. Ví dụ: “Nhân chi bách hạnh” cắt nghĩa là “trăm hạnh của con người” thay vì “người chưng trăm hạnh”; “kỳ nhân” cắt nghĩa là “người ấy” thay vì “thửa người” v.v.

 Ngộ Đạo Từ Vân (chùa Tân Long, Đồng Tháp) đã mở lớp dạy học, và khắc bản in các kinh luật: Sa di luật giải, Kinh Tam Bảo, Kinh Kim Cang, Thần chung tịnh độ kinh, Hứa sử truyện vãn, Chư sám quốc âm, Phục sơ giác bổn diễn ca tập, Tam quy ngũ giới thích nghĩa, Niệm Phật pháp môn công cứ, Lục tổ bảo đàn diễn nghĩa.

 Như Trí Khánh Hòa được coi là học sinh xuất sắc của trường Sông Tra thời đó, Ngài dự học cả Kinh và Luật. Năm 1905, Như Trí Khánh Hòa lúc đó 21 tuổi, trùng tuyên kinh Kim Cang ở Trường Hương chùa Long Huê, Gò Vấp.

 Sau khi trường Sông Tra bế giảng, do ảnh hưởng phong trào chấn hưng Phật giáo Trung Quốc, hòa thượng Khánh Hòa đứng lên vận động phong trào chấn hưng Phật giáo. Chư tôn hưởng ứng phần lớn là các học trò trường Sông Tra cả. Năm 1932, hòa thượng đã bán chánh điện chùa Tuyên Linh của mình đang trụ trì để xây Thích Học Đường ngay tại chùa Linh Sơn, trụ sở của Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học. Ông Trần Nguyên Chấn, lúc ấy giữ chức phó hội trưởng của Hội, mật báo với nhà cầm quyền Pháp là các ông thầy mở trường dạy chủ nghĩa cộng sản. "Nhà nước" ra lệnh cấm ngay. May mà quí hòa thượng không ai bị bắt giam.

 Thích Học Đường, cơ quan đào tạo tăng tài, xóa bỏ nạn thất học của tăng đồ, không thực hiện được ở thành phố. Các hòa thượng cố tìm một phương thức khác.

 Không lập trường được ở một điểm cố định, các hòa thượng lập trường với hình thức lưu động, lấy tên là Liên Đoàn Học Xã. Lớp học lần lượt được tổ chức ở 3 điểm. Mỗi chùa luân phiên đài thọ 3 tháng việc ăn ở cho giáo thọ và các tăng sinh. Đầu tiên là chùa Long Hòa của hòa thượng Huệ Quang ở Cầu Kè Trà Vinh, điểm kế tiếp là chùa Thiên Phước của hòa thượng Chánh Tâm ở Trà Ôn và điểm thứ ba là chùa Viên Giác của hòa thượng Tâm Quang ở Bến Tre. Khác với hai điểm trước, lớp học tổ chức được tốt đẹp đem lại sự hoan hỉ cho cả thầy dạy và người học. Nhưng ở điểm thứ ba, lớp học bị ông Trần Nguyên Chấn viết thư cho chủ tỉnh Bến Tre là Liên Đoàn nói rằng lớp học hoạt động không giấy phép, hòa thượng Khánh Hòa là chủ chốt. Lớp học khai giảng được 1 tuần, hòa thượng Khánh Hòa bị mời tới dinh tỉnh trưởng tra hỏi. Hòa thượng phải trình bày cặn kẽ cho chủ tỉnh biết mục đích dạy học và cắt nghĩa các kinh đang dạy là không liên quan đến chính trị. Cuối cùng quan chủ tỉnh xét thấy hợp lý hòa thượng mới được thả về bình yên.

 Sự kiện này gây xôn xao trong học chúng và giáo thọ. Thầy trò không còn tâm trí nào dạy và học nữa. Theo ý kiến của ban giáo thọ, hòa thượng Khánh Hòa đành giải tán. Tại sao học chúng tâm trí bất an? Trở lại những năm 30 của thế kỷ trước, các thanh niên mỗi người phải có một giấy thuế thân. Các thanh niên tăng hồi đó quá nghèo làm gì có tiền đóng thuế, vô hình trung là một phần tử trốn thuế đối với chính quyền sở tại. Có việc gì phải ra làng tổng, họ đã rét run rồi, huống chi việc này tới tai quan tỉnh trưởng. Vì vậy không thể giữ họ lại trong tâm trạng đầy ắp lo âu này. Ý thức được nỗi lo sợ của các tăng sinh thời ấy, hòa thượng Khánh Hòa cùng hòa thượng Huệ Quang cố vận động với các hòa thượng đồng chí cùng một số Phật tử trí thứchằng sản hằng tâm ở Trà Vinh thành lập một hội Phật học hợp pháp khác.

 Hội Lưỡng Xuyên Phật học được thành lập có giấy phép do Pierre André Michel Pagès, thống đốc Nam Kỳ, ký ngày 13/8/1934.

 Có Hội Lưỡng Xuyên hoạt động hợp pháp đỡ đầu, năm 1935 Thích Học Đường Lưỡng Xuyên bắt đầu hoạt động với ban điều hành:

 Hòa thượng Khánh Hòa làm đốc học sư (giám đốc)

 Hòa thượng Huệ Quang làm đốc giáo

 Hòa thượng Khánh Anh làm giáo thọ trưởng.

 Thỉnh thoảng có mời các vị Mật Thể, Như Ý, Trí Thuyên, Nhựt Liên từ Huế vào dạy.

 Khóa đầu tiên của trường gồm có 30 học viên, trong đó có các vị: Hành Trụ, Huyền Quang, Thiện Hòa, Thiện Hoa, v.v.

 Trường có gởi học tăng ra Huế học, như: Thiện Hòa, Thiện Hoa, Hiển Thụy, Hiển Không, Hiển Chơn, v.v.

 Năm 1945, trước biến chuyển thời cuộc, nhân tâm dao động, tài chánh eo hẹp, trường đành đóng cửa.

 Cũng trong năm 1945, Phật học đường Báo Quốc sau khi dời lên chùa Kim Sơn vẫn không ổn vì điều kiện kinh tế khó khăn, nên ban giám đốc quyết định giao cho các vị mãn khóa tốt nghiệp người Nam đưa trường về miền Nam tiếp tục dạy dỗ. Do thời cuộc không ổn định, sau khi đoàn về tạm trú tại chùa Vĩnh Tràng (Mỹ Tho), một số theo tiếng gọi Tổ quốc cởi áo ca sa mặc chiến bào, một số tìm đến trường Lưỡng Xuyên, một số theo thầy Thiện Hoa xuống chùa Phật Quang Trà Ôn.

 Trường Phật học Phật Quang Trà Ôn bắt đầu từ cuối năm 1945, quy tụ một số học tăng tại địa phương, một số khác từ Huế vào. Trường do hai vị Trí Tịnh và Thiện Hoa đảm trách việc giảng dạy. Giữa năm 1946 do thời cuộc bất ổn, thầy Trí Tịnh lên Sài Gòn lập Phật học đường Liên Hải tại chùa Vạn Phước ở Bình Trị Đông (bây giờ là quận Bình Tân).

 Trường Liên Hải gồm có 3 lớp:

 Mông đẳng: 21 vị

 Sơ đẳng 2: 18 vị

 Sơ đẳng 3: 7 vị

 Giáo thọ, ngoài thầy Trí Tịnh (lúc đó là thượng tọa) còn có thầy Quảng Minh phụ trách lớp Mông đẳng.

 Lớp Mông đẳng gồm có: Thiện Phước, Thiện Hậu, Thiện Chơn, Thiện Huê, Chơn Lễ, Minh Cảnh, Tắc Nghiệp, Định Trí, Tắc An, v.v.

 Lớp Sơ đẳng 2 gồm có: Tịnh Đức, Tắc Phước, Tắc Minh, Đạt Sanh và một số thầy từ Phật học đường Kim Sơn theo về.

 Lớp Sơ đẳng 3 gồm có: Bửu Huệ, Huệ Hưng, Trí Minh, Quảng Liên, Tâm Hòa, Phước Cần.

 Năm 1948, ở Huế mở lớp nâng cao, các thầy Quảng Minh, Trí Minh, Quảng Liên ra Huế học. Hai lớp Sơ đẳng 2 và 3 nhập làm một do thượng tọa Trí Tịnh giảng dạy.

 Năm 1949, thượng tọa Trí Tịnh do lao lực nhiều nên sinh bịnh, thầy Quảng Minh về thay thế.

 Trường Tăng Già. Trong khi thượng tọa Trí Tịnh lập Phật học đường Liên Hải, ngài Hành Trụ hợp cùng các thân hữu thành lập trường học lấy tên Tăng Già ở Vĩnh Hội gần hãng thuốc lá Bastos, dạy cả hai chúng tăng và ni, với sự phụ tá của thầy Huệ Phương, một cựu học tăng của trường Báo Quốc. Trường Tăng Già về sau số ni chúng càng đông. Năm 1947, ngài Hành Trụ thuê một miếng đất của người Chà ở giữa đồng cách chùa Tăng Già độ 800m lập nên chùa Giác Nguyên để cho các tăng sinh tu học.

 Trường hoạt động đến năm 1956, các học tăng sang dự thínhẤn Quang về nội điển, còn ngoại điển học ở trường tư thục bên ngoài.

Song song với Phật học đường Liên Hải và trường Tăng Già còn hai trường khác:

 1. Trường Mai Sơn cách trường Liên Hải độ 2 km về hướng đông do thầy Huyền Dung, một học tăng của Báo Quốc, vận động một số Phật tử Chợ Lớn thành lập đầu năm 1947.

 2. Trường Ứng Quang do thầy Trí Hữu, người Quảng Nam, mua một miếng đất nhỏ ở ngã ba Vườn Lài lập nên vào năm 1948.

 Cuối năm 1950, trường Liên Hải sáp nhập với trường Mai Sơn và Ứng Quang làm Phật học đường Nam Việt, cử hòa thượng Thiện Hòa làm giám đốc. Khi mới sáp nhập mượn chùa Sùng Đức làm trụ sở tạm. Sau đó dời về chùa Ứng Quang ở Vườn Lài và đổi tên thành chùa Ấn Quang. Ban giáo thọ Phật học đường Nam Việt gồm các vị: Thiện Hòa, Quảng Minh, Quảng Liên, Huyền Dung, Trí Minh, Nhật Liên, Trí Hữu phụ trách giảng dạy. Từ năm 1952, các vị Quảng Liên, Huyền Dung, Quảng Minh lần lượt xuất dương du học.

 Với đức độtài năng của mình, thầy Thiện Hòa sau khi nhận nhiệm vụ giám đốc Phật học đường Nam Việt, với chương trình hợp lý, ban giáo thọ nhiệt tâm năng động, học tăng các nơi quy tụ mỗi lúc một đông. Năm 1953 Thầy Thiện Hoa từ Cần Thơ về giữ chức đốc giáo, trường càng được củng cố vững vàng hơn nữa:

 Các học tăng từ Phật học đường Giác Nguyên sang: Trí Phước, Trí Lạc, Thiện Lực, Viên Hạnh, Huệ Bửu.

 Các vị ở Phan Rí vào: Đức Hạnh, Đức Thiện, Đức Bổn, Như Hương, Tâm Minh.

 Các vị ở Phan Rang: Huyền Vi, Huyền Thâm, Tịnh Hạnh, Nguyên Lai, Đổng Triệt, Đồng Tánh.

 Các vị ở Quảng Nam: Đồng Huy, Chơn Phát, Như Huệ, Thị Thành, Như Vạn.

 Các vị ở các tỉnh phía Bắc vào: Thanh Tuất, Minh Kha, Vĩnh Tuy, Chính Tiến, Quảng Long, Giác Hải, v.v.

 Các vị ở hai trường Liên Hải, Mai Sơn nhập lại: Thiện Phúc, Thiện Hậu, Thiện Đức, Hồng Cơ, Hồng Đạo, Từ Thông, Thiên Định, Nhựt Ân, Lãng Phổ, Huệ Văn, Hoằng Chiếu, Thiện Tân, Trí Không, Trí Châu, Thiện Bình, Minh Cảnh, Thiện Tánh, Nhựt Quang, Nhựt Thỉ, Nhựt Tân, Nhựt Thiện, Chơn Lễ, Thanh Phong…

 Hơn 80 người, chia làm 3 lớp, sống trong tinh thần kỷ luật an vui, dưới sự che chở của bóng mát ban điều hành

------------------

* Thư mục tham khảo

Khánh Anh, Khánh Anh văn sao, 3 tập, Gia Định, 1952.

Thích Thiện Hoa, 50 năm chấn hưng Phật giáo Việt Nam, tập 1, 1970.

Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận I II III, Nxb Văn Học, Hà Nội, 2000.

Trí Không, Tổ đình Ấn Quanglịch sử phát đạt của Phật giáo Việt Nam từ 1950 trở đi, tài liệu lưu hành nội bộ, 2009.

Tư liệu qua lời kể các vị tôn túc như: HT.Thích Huệ Xương, HT.Thích Thiện Thạnh.

Nghiên cứu thực địa: Chùa Giác Hải (Thành phố Hồ Chí Minh), chùa Thiền Lâm (Tây Ninh), chùa Kim Cang (Long An), chùa Tân Long (Đồng Tháp), v.v.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6312)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8555)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5275)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5839)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7471)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6382)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5976)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4765)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5711)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5893)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6137)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6615)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5964)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7086)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6690)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4823)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4959)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7742)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9848)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7564)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5351)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6448)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5455)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5872)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6433)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5714)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6455)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7077)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6303)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10684)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6694)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6203)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6757)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6152)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6520)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5537)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8275)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5752)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7575)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6267)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9670)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4074)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6402)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4193)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4317)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4782)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5345)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5299)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5832)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6802)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5563)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4511)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5342)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 5014)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4379)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6882)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4625)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8431)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7229)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8388)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant