Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

47 Kinh Cùng Đinh

20 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 13939)
47 Kinh Cùng Đinh



ĐỨC PHẬTPHẬT PHÁP
Đại Đức Narada Maha Thera, 1980 - Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Nguyên tác: "The Buddha and His Teachings"
Buddhist Publication Society, Sri Lanka

Phụ Bản 3

Kinh Hạng Cùng Đinh
(Vasala Sutta)

Tôi có nghe như vầy:

Vào một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa của Trưởng Giả Anathapindika (Cấp Cô Độc) trong khu rừng Jeta (Kỳ Viên). Sáng hôm nọ Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào thành Savatthi (Xá Vệ) để trì bình.

Lúc bấy giờ trong nhà của Aggika Bharadvaja, một người theo đạo Bà La Môn cũng chuẩn bị để dâng cúng vật thực. Đức Thế Tôn ôm bát đi từ nhà này sang nhà khác trong thành Savatthi và đến gần nhà của vị bà la môn. Thấy Đức Phật từ xa đến, vị bà la môn nói:

"Hãy đứng lại, này ông thầy tu! Hãy dừng lại, này ông đạo bần tiện đê hèn! Hãy đứng lại đó, này người cùng đinh khốn khổ !" [1]

Khi nghe như vậy thì Đức Thế Tôn ôn tồn nói: Nầy ông bà la môn, ông có biết người cùng đinh là thế nào, hay cái gì làm cho người ta cùng đinh không?

- Không, quả thật tôi không biết. Nầy Đức Gotama (Cồ Đàm), tôi không hiểu cùng đinh là thế nào và những gì làm cho ta là cùng đinh. Xin Đức Gotama hoan hỷ tuyên ngôn chỉ dạy Giáo Pháp giúp tôi có thể hiểu biết thế nào là cùng đinh và những gì làm cho người ta trở thành cùng đinh.

- Hãy nghe đây, này ông bà la môn! Như Lai nói đây, và hãy nhớ lấy nằm lòng.

- Tốt lắm, này Đức Gotama, tôi nghe đây, ông bà la môn trả lời.

Đức Thế Tôn mở lời tuyên ngôn như sau: [2]

1. Con người dễ nóng giận, hay hiềm thù, có nhiều thói hư tật xấu, tánh ưa phỉ báng gièm pha [3], người có quan kiến sai lầm và bẩm tánh giả dối ưa gạt gẫm phỉnh lừa - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.

2. Người nào trên thế gian này làm tổn thương những chúng sanh "sanh một lần" hay những chúng sanh "sanh hai lần" [4], người không có lòng bi mẫn đối với chúng sanh - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.

3. Người nào tiêu diệt, vây hãm thôn xóm và được gọi là người áp chế chinh phục - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.

4. Dầu trong xóm làng hay trong rừng hoang, người nào trộm cắp hoặc sang đoạt sở hữu của người khác mà không được cho đến mình - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.

5. Người nào mang nợ, bỏ trốn, và khi được hỏi, lại nói ngược, "Nào tôi có thiếu nợ gì đâu" - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.

6. Người nào vì lòng tham, giết bạn cùng đồng hành với mình trên đường đi để cướp giật - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.

7. Người nào được mời ra làm nhân chứng, nói lời giả dối vì lợi riêng của mình, hay vì lợi ích của ai khác, hoặc vì để thâu đoạt tài sản - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.

8. Người nào dùng áp lực hãm hiếp hay dụ dỗ vợ bạn hay họ hàng - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.

9. Người nào giàu có mà không phụng dưỡng cha mẹ già đã quá tuổi xuân xanh - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.

10. Người nào đánh đập hay nói lời phiền nhiễu cha, mẹ, anh, chị, hay nhạc mẫu, nhạc phụ - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.

11. Người nào mà khi được hỏi về điều phải, khuyên dạy về điều sai lầm và dạy mà còn giấu kín giữ bí mật - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.

12. Người nào đã làm điều ác mà muốn không ai biết, và giấu nhẹm giữ kín - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.

13. Người nào, khi đến nhà người được đãi đằng với những món ngon vật lạ, đến lượt mình, khi khách đến nhà lại không tiếp đón phải lẽ - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.

14. Người nào giả dối lường gạt một vị Bà La Môn , một đạo sĩ ẩn dật, hay một tu sĩ du phương hành khất - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.

15. Người nào bằng lời nói, phiền nhiễu một vị Bà La Môn hay một đạo sĩ ẩn dật vào lúc thọ thực, và không dâng cúng (vật thực) - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.

16. Người nào trên thế gian này, bị mịt mù che lấp trong vô minh, lại bày điều tiên đoán việc không có, để cầu mong được gì - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.

17. Người nào tự tâng bốc mình, khinh rẻ người khác, và trở nên đê hèn vì tánh tự phụ của mình - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.

18. Người nào có tánh ưa khuấy nhiễu, tham lam quá độ, ham muốn đê hèn, ích kỷ, lưu manh, không biết hổ thẹnghê sợ tội lỗi - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.

19. Người nào nguyền rủa, mắng chửi Đức Phật hay một vị đệ tử của Phật, dù là hàng xuất gia hay cư sĩ tại gia - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh.

20. Người nào không phải là một vị A La Hánmạo nhận, tự xưng mình là A La Hán, là kẻ trộm của toàn thể vũ trụ [6], người ấy là hạng cùng đinh thấp hèn nhất.

Như vậy, những hạng người mà Như Lai mô tả trên đây quả thật đáng gọi là cùng đinh [7].

21. Không [8] phải do sanh trưởng là cùng đinh [9], không phải do sanh trưởng là Bà La Môn. Do hành vicùng đinh, do hành viBà La Môn. [10]

22. Hãy biết như vậy do câu chuyện này: [11] Thuở ấy có Matanga, con một người cùng đinh, người "nấu thịt chó". [12]

23. Người con tên Matanga này thành đạt mức vinh quang tuyệt đỉnh rất khó thành đạt, và được nhiều người thuộc giai cấp chiến sĩ và Bà La Môn hỗ trợ.

24. Đi đến cảnh giới Phạm Thiên bằng chiếc "xe của thiên đình" [13] trên con đường "xa lộ không dục vọng" [14], Matanga hiện thân lên [15] cảnh Phạm Thiên, lánh xa mọi hình thức tham ái. Trạng thái sanh trưởng (trong cảnh cùng đinh) không gây trở ngại cho sự tái sanh vào cảnh Phạm Thiên.

25. Có những vị Phạm Thiên tái sanh vào gia đình truyền giáo [16] quen thuộc với kinh kệ (Veda). Những vị này lắm khi cũng có những hành vi xấu xa tội lỗi.

26. Trong kiếp này các vị ấy bị khinh khi, kiếp sống tới họ sẽ bị lâm vào cảnh khổ. Sanh trưởng không giúp họ tránh khỏi phải trái sanh vào khổ cảnh hay gặt hái quả dữ.

27. Do sanh trưởng, người ta không trở thành cùng đinh, do sanh trưởng, người ta không trở thành Bà La Môn. Trở thành cùng đinh do hành vi, trở thành Bà La Môn do hành vi.

Khi Đức Thế Tôn dạy như vậy vị Bà La Môn Aggika Bharadvaja nói:

"Lành thay, Bạch Đức Gotama! Lành thay, Bạch Đức Gotama! Cũng như người kia dựng lại ngay ngắn một vật đã bị lật đổ, hay khám phá ra một vật đã được giấu kín, hay vạch đường chỉ lối cho người lạc bước, hay cầm đèn soi sáng trong đêm tối để cho ai có mắt có thể trông thấy, Giáo Pháp mà Đức Gotama giảng dạy bằng nhiều phương cách dường thế ấy.

"Bạch Đức Thế Tôn, nay con xin quay về nương tựa nơi (quy y với) Đức Gotama, nơi Giáo Pháp và nơi Giáo Hội Các Vị Đệ Tử của Ngài. Kính xin Đức Gotama từ bi chấp nhận con vào hàng môn đệ ngay từ ngày này đến giờ phút cuối cùng của đời con".

-oOo-

Chú Giải Bài Kinh Vasala Sutta:

[1] "Những lời lẽ nặng nề, khiếm nhã của vị Bà La Môn lúc bấy giờ rất trái ngược với thái độ tôn nghiêm kính cẩn về sau đáng nên được có một lời giải thích. Bản Chú Giải ghi rằng vào buổi sáng hôm ấy, như thường lệ, Đức Phật dùng oai lực thần thông siêu phàm nhìn quanh thế gian thì thấy vị Bà La Môn này đủ thuần thục để quy y Tam bảothọ trì Giới Hạnh. Ngài ra đi đặc biệt để gặp ông. Vị Bà La Môn sáng hôm ấy cũng vừa cúng thần Brahma (Brahma-Puja) xong, tìm một điềm tốt, tức một dấu hiệu may mắn, thì mắt vị ấy thấy một ông "thầy tu trọc đầu" và một vị "Sa môn" (Samana), cả hai đều là điềm không may, là dấu hiệu bất tường, theo sự tin tưởng của người giữ đạo Bà La Môn. Vì lẽ ấy khi thấy Đức Phật từ xa đến thì ông ta nổi giận, tuôn ra những lời lẽ cộc cằn thô lỗ.

Sau khi nghe những lời hoà nhã êm dịu của Đức Thế Tôn, được thốt ra với một giọng nói hiền từ, và nhìn thấy phong độ trầm tĩnh đầy bi mẫn của Đức Bổn Sư thì vị Bà La Môn cảm nghe thẹn thùng và những lời của ông về sau biểu lộ nỗi niềm ăn năn hối hận." -- (Kassapa Thero).

[2]Vị Bà La Môn nổi cơn phẫn nộ vì cái mà ông cho là điềm xấu. Đó là mới sáng sớm đã thấy một "thầy tu trọc đầu". Ông cho đó là điềm bất tường nên nói lên những lời cộc cằn khiếm nhã.

Đức Phật không bao giờ trả thùlễ độtrầm tĩnh trả lời, không làm giảm giá trị ông Bà La Môn và cũng không tự tâng bốc khen ngợi mình. Ngài không nói rằng người nóng nảy lỗ mãng, ăn nói thô lỗ cộc cằn, quả thật là "cùng đinh" - Vasala - theo đúng định nghĩa của danh từ, mặc dù người ấy có thể được sanh ra từ trong đầu của thần Brahma.

Câu trả lời của Đức Thế Tôn làm cho ông Bà La Môn cảm thấy rằng chính Đức Phật là một vị Bà La Môn trong khi ông - người được gọi là Bà La Môn - đúng thật là cùng đinh.

[3] Makkha - thường được dịch là "đạo đức giả", "ngụy thiện", giả dối. Đúng theo ngữ nguyên là "bôi bỏ cái tốt của người khác".

[4] Nơi đây Đức Thế Tôn dùng danh dừ "sanh hai lần", theo văn thể thường dùng trong kinh sách Bà La Môn.

Ekajam-Dvijam, những chúng sanh "sanh một lần", tức tất cả chúng sanh, loại trừ loại noãn sanh, như chim chóc hay những loài được sanh ra từ trong trứng. "Sanh hai lần", một lần trong trứng và một lần nữa trong trứng sanh ra.

[5] A La Hán. Một vị thánh toàn thiện đã tận diệt mọi ô nhiễm.

[6] "Sabrahmake loke" theo nghĩa trắng là: trong thế gian cùng với chư Phạm Thiên, tức toàn thể vũ trụ (Bản Chú Giải).

[7] Trong 20 câu, Đức Phật kể ra ba mươi bốn loại điều kiện làm cho con người trở thành cùng đinh.

Câu đầu tiên Ngài đề cập đến sáu loại điều kiện như sân hận v.v...; trong câu thứ nhì, Ngài đề cập đến sự kiện làm tổn thương chúng sanh khác; thứ ba, đến sự áp bức, chinh phục; thứ tư, đến sự trộm cắp; thứ năm, đến sự gian lận, nợ nần; thứ sáu, đến sự cướp giựt; thứ bảy, đến sự làm chứng gian để vụ lợi; thứ tám, đến tánh nết giả dối phản bội; thứ chín, đến sự không biết ơn cha mẹ; thứ mười, đến sự đánh đập và quấy rầy những người sống quanh; thứ mười một, đến sự tự lừa dối, lường gạt mình; thứ mười hai, đến sự gây tội ác và giấu nhẹm, giữ kín trong lòng; thứ mười ba, đến tánh vô ân bạc nghĩa; thứ mười bốn, đến sự giả dối lường gạt; thứ mười lăm, đến sự nguyền rủa chửi mắng người tu hành; thứ mười sáu, đến sự gian lận; thứ mười bảy, đến tánh tự cao, tự đại và khinh rẻ người khác; thứ mười tám, đến bảy điều kiện như chửi mắng v.v...; thứ mười chín, đến việc xử tồi tệ với Đức Phật và chư vị đệ tử; thứ hai mươi, giả dối tự xưng mình là bậc A La Hán.

Không xét đoán người qua sự sanh trưởng mà qua hành vi, bậc Thánh Nhân gọi ba mươi bốn loại người ấy là hạng người cùng đinh.

[8] Đức Phật nói lên câu này nhằm đánh tan quan kiến sai lầm mà vị Bà La Môn khư khư cố chấp.

[9] Theo Bản Chú Giải, "Vasala", cùng đinh, là người bị những đám mưa (vassanto) làm cho hành động bị ô nhiễm, và Bà La Môn là người quét sạch, đánh tan (bahento) mọi ô nhiễm bằng những hành động trong sạch. Trong bản dịch này danh từ "Brahmana" ám chỉ các bậc A La Hán, danh từ "brahmin" thì chỉ những người trong giai cấp Bà La Môn.

[10] Comp: "Sự sanh trưởng không làm cho con người thuộc về giai cấp Bà La Môn, cũng không làm cho con người không phải ở trong giai cấp Bà La Môn.

"Chính đời sốnghành vi uốn nắn, làm cho con người trở nên thật sự là Bà La Môn.

Cuộc sống uốn nắn làm cho con người trở nên nông dân, thương gia, nô bộc ;

Cuộc sống uốn nắn làm cho con người trở nên kẻ trộm cắp, chiến sĩ, quan quyền."

[11] Đức Phật muốn nhắc đến một câu chuyện trong tiền kiếp xa xôi của Ngài, khi là con một người cùng đinh. Lúc bấy giờ Ngài tên Matanga, có một cuộc sống đức hạnh phi thường, làm cho mọi người đều khâm phục và sau đó tái sanh vào cảnh Trời Phạm Thiên. Xem Túc Sanh Truyện Matanga Jakata, số 497.

[12] Candala, cùng đinh, có nghĩa là giai cấp thấp hèn; Sopaka có nghĩa là người nấu thịt chó để ăn, ám chỉ một lối sống thấp kém; và Matanga là tên của con người cùng đinh ấy (Bản Chú Giải).

[13] Chiếc xe của thiên đình. Tức là Bát Chánh Đạo, có tác dụng đưa chúng sanh đến cảnh giới Phạm Thiên (Brahma realm).

[14] Con đường "xa lộ không dục vọng" là con đường mà các bậc vĩ nhân như Đức Phật v.v... đã đi trên đó.

[15] Sau khi cơ thể tan rã.

[16] Những vị hằng ngày dấn thân trong việc học kinh Phệ Đà (Veda).


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3232)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4487)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2679)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5098)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3742)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3790)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3148)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4027)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 4950)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3454)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6610)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3912)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3147)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3056)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2892)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5773)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4546)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3434)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2826)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3236)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4354)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5596)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6524)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3632)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4466)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4508)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3913)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3338)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4493)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 5932)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5757)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3567)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4599)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4391)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4446)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4198)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4516)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8096)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3862)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5643)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5092)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6721)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6104)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5872)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5657)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6137)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6658)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4876)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5458)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6273)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3687)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5299)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10346)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 5980)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9193)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6285)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5854)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7332)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7166)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5074)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant