Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tin Sâu Nhân Quả

20 Tháng Bảy 201905:22(Xem: 4565)
Tin Sâu Nhân Quả
Tin Sâu Nhân Quả 

Hữu Huệ


Hạnh Của Đất

Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ, nhất là khi gặp phải những chuyện có vẻ nghịch lý trong cuộc sống, như tại sao người tốt thì chết yểu còn người ác lại sống dai…
Chuyện người tốt thì chết yểu còn người ác lại sống dai không có nghĩa là không có luật nhân quả. Phật dạy, việc sống dai hay chết yểu của con người chủ yếu do nghiệp báo (nhân chính của chết yểu là do sát sanh…) nhưng nghiệp báo cũng có nhiều loại hiện báo (hiện đời), sinh báo (đời sau), hậu báo (nhiều đời sau).

Mặt khác, yếu tố tâm sinh lý hiện tại cũng liên quan đến thọ hay yểu. Người làm ác nhưng tâm trạng họ thoải mái, vui vẻ và làm những điều họ thích. Tâm trạng “lạc quan” đó cũng góp phần làm sức khỏe của họ tốt hơn. Ngược lại, người không làm ác, sống có đạo đức nhưng tâm trạng thì lúc nào cũng lo âu, rầu rĩ, bực tức thì làm sao không chết sớm cho được. Ví dụ có người hàng xóm ăn trộm con gà. Anh ta thịt gà nấu cháo rồi thưởng thức. Ta biết được chuyện đó cảm thấy tức tối, rằng tại sao lại có hạng người làm việc xấu ác mà có thể phè phỡn như vậy được. Trong khi anh ta ăn xong rồi lên giường ngủ một giấc ngon lành tới sáng thì mình suốt đêm không ngủ vì chuyện của anh ta. Như vậy thì ai khổ hơn ai và ai bị hao mòn sức khỏe hơn ai?

Đọc lịch sử chúng ta cũng thấy những trung thần thường chết sớm, còn nịnh thần, gian thần thì cứ sống phây phây hoài. Bởi vì trung thần thì luôn để tâm lo cho dân cho nước, lúc nào cũng “Bui một tấc lòng ưu ái cũ. Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông” (Thuật hứng, Nguyễn Trãi) thì làm sao không hao tâm tổn khí. Trong khi đó bọn gian thần thì chỉ lo cho bản thângia đình họ, chỉ tính làm sao cho họ được vinh thân phì gia, thì làm sao không… tăng cân cho được. Có những trung thần vì không chịu đựng được những việc làm của nịnh thần tức đến hộc máu mà chết (ngày nay gọi là tai biến). Đối với người tu cũng vậy. Người phá giới thì ung dung tự tại, còn người giữ giới thì cứ bực bội hoài, rằng sao tu mà không giữ giới. Như vậy thì ai mau già hơn ai?

Trong kinh Đức Phật cũng dạy rằng có những bệnh do nghiệp, nhưng cũng có những bệnh do thời tiết, ăn uốnglối sống. Theo y học cổ truyền thì tính khí của con người ảnh hưởng rất lớn đến cơ thể. Như hoan hỷ quá thì ảnh hưởng đến tim, phẫn nộ ảnh hướng đến gan, ưu sầu ảnh hưởng đến phổi, lo sợ ảnh hưởng đến thận và căng thẳng ảnh hưởng đến dạ dày. Cho nên vấn đề không phải là người ác mà sống dai còn người hiền thì chết sớm mà một phần là do cách sống của họ tác động làm ảnh hưởng đến sức khỏe và tuổi thọ của họ.

Ở đây tôi không có ý rằng, mình cứ làm xấu, làm ác, miễn sao tâm trạng lúc nào cũng vui vẻ thoải mái là được, là sẽ có kết quả tốt. Tôi chỉ muốn nói rằng, chỉ làm người tốt không thôi chưa đủ mà còn phải hiểu mọi vấn đề cho rõ ràngđúng đắn. Mình còn bực tức nghĩa là sự tu dưỡng của mình chưa cao, chưa điều tiết được cảm xúc, chưa dứt trừ được phiền não tham sân si, và nhất là chưa tường tận luật nhân quả. Đức Phật không chỉ dạy chúng ta giữ giới mà còn dạy chúng ta tu tập thiền định và trí huệ. Làm người có đạo đức chỉ là bước đầu căn bản. Nếu không có sự tu dưỡng tính khí và thấu đạt nhơn tình thì người bị tổn thương có khi lại chính là mình. Cho nên đạo đức, thẳng thắn, cương trực là tốt nhưng “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ” (Nguyễn Đình Chiểu), ghét cay ghét đắng đến nỗi nộ khí xung thiên hay u sầu uất hận thì không tốt.

Chúng ta phải biết và tin sâu rằng luật nhân quả không bao giờ sai chạy. Chiến thắng cuối cùng sẽ thuộc về chính nghĩa. Cái xấu, cái ác, cái gian có thể nhất thời lấn lướt cái tốt nhưng đó chỉ như sự tươi tốt bên ngoài của cái cây, còn bên trong của cái cây đó thì đang bị sâu đục, không thể nào tránh khỏi cái chết trong nay mai. Người có niềm tin sâu sắc vào nhân quả sẽ không bao giờ bị lung lay bởi những gì xảy ra trước mắt, những cái tưởng chừng như trái với luật nhân quả. Sự vận hành của luật nhân quả và nghiệp của chúng sinh không phải là điều mà phàm phu có thể biết hết được. Chính Đức Phật đã nói điều đó, rằng có bốn điều mà phàm phu không thể dùng trí óc mà nghĩ tới được. Dù có suy nghĩ đến bể đầu cũng không hiểu đến chỗ tận cùng của chúng. Bốn điều đó là cảnh giới của một vị Phật, cảnh giới của một A-la-hán, sự vận hành của quả dị thục (tức nghiệp) và cuối cùng là tâm tư thế giới. Điều mà chúng ta có thể làm và nên làm là tin rằng: Làm ác thì không bao giờ có kết quả hạnh phúc và làm thiện thì không bao giờ có thể đưa đến kết quả khổ đau. Đó là chân lý của vũ trụ.

Triết học Mác-Lenin nói rằng sự phát triển của sự vật, hiện tượng là theo hình xoắn trôn ốc, có xu hướng, khuynh hướng lặp lại giai đoạn đầu nhưng ở trình độ cao hơn. Nói cách khác là sự vật, hiện tượng nhìn có vẻ không phát triển hoặc thoái hóa nhưng thực chất là chúng đang tiến hóa. Điều này cũng không khác mấy với cách vận động của luật nhân quảnghiệp báo. Cái mà ta thấy chúng có vẻ trái với luật nhân quả nhưng kỳ thật là chúng đang đi rất đúng với quy luật tự nhiên rất công bằng này.

Ở gần nhà tôi hai gia đình rất trái ngược nhau. Gia đình A thì ăn ở hiền lành nhưng đủ ăn chứ không giàu, còn gia đình B thì giàu nhưng rất hung dữ. Gần đó có gia đình C rất nghèo, chồng bị tai biến, vợ buôn bán nhỏ và phải nuôi hai đứa con nhỏ, đành kêu bán nhà vì khó khăn. Lúc đầu bán cho gia đình A. Gia đình B biết được không muốn cho gia đình A mua được miếng đất gần đường lộ rất có giá trị đó nên đã trả giá cao hơn để mua. Gia đình A cũng không nói gì, hơn nữa còn mừng cho gia đình C vì đã bán được giá cao để có thêm tiền lo cho gia đình. Thế nhưng một thời gian sau thì chỗ đất đó bị giải tỏa và tiền đền bù thì không được bao nhiêu.

Riêng tôi, khi còn học ở Học viện PGVN tại TP.HCM (khóa VI, 2005-2009) thì trường có mở đợt thi Anh văn để cấp học bổng du học Ấn Độ. Lúc đó tôi không hay. Đến khi hay tin thì đã thi xong rồi. Tôi rất lấy làm tiếc, nghĩ sao mà mình kém phước quá. Sau khi học xong, tôi về chùa tu bình thường. Nghĩ rằng chắc mình chỉ có thể học tới đây thôi. Nhưng một năm sau thì có một Phật tử bên Mỹ về thăm quê hương. Qua nói chuyện biết được hoàn cảnh của tôi nên đã phát tâm tài trợ cho tôi du học Ấn Độ. Sau khi tôi học xong, vị Phật tử ấy vẫn tiếp tục ủng hộ tài vật cho tôi cho đến khi qua đời.

Tôi ngẫm nghĩ rằng nếu trước đây mình mà đi du học diện học bổng thì đâu có gặp được vị Phật tử này và đâu có được ủng hộ lâu dài như thế. Hơn nữa, nếu tôi qua Ấn Độ theo diện học bổng đợt đó thì việc học chưa chắc được thuận lợi như sau đó. Vì lúc đó các giáo sư đều đã có học trò nên việc tìm “seat” làm nghiên cứu sinh là vô cùng khó khăn. Chưa hết, tôi đã gặp được vị giáo sư rất tốt bụng và rất thương tôi, sẵn sàng giúp đỡ tôi mỗi khi tôi có việc cần. Nếu tôi qua trước đó thì rất có thể tôi sẽ không gặp được vị giáo sư tốt như vậy.

Cho nên nhiều khi mình mất cái này mà lại được cái kia còn tốt hơn cái này nữa. Không biết đó là phước của mình hay do mình ăn hiền ở lànhchư thiên hộ pháp gia hộ, nhưng tôi thấy mình thật may mắn. Tôi kể ra những chuyện này không có ý chê hay khen ai, mà chỉ để chia sẻ rằng mình cứ làm lành thì vận may sẽ tự an bài. Có những chuyện mình thấy vậy chứ không phải vậy. Người làm ác có khi thấy họ được cái lợi trước mắt nhưng cái họa đang chờ họ phía trước. Còn người làm lành thì nhiều khi gặp cái họa nhỏ là để tránh cái họa to hay mất điều tốt đẹp này để được điều tốt đẹp khác lớn hơn. Cho nên mọi người cần phải tin tưởng sâu sắc vào luật nhân quả. Luật gì cũng lách được nhưng luật nhân quả thì không bao giờ sai chạy dù chỉ một tơ hào.

Một lần có người hỏi tôi là có tin địa ngục không. Tôi trả lời “tin”. Họ hỏi rằng “thầy không thấy địa ngục sao tin là có”. Tôi trả lời rằng tôi không thấy nhưng địa ngục là do chính Đức Phật nói. Vì tôi tin Phật nên tin có địa ngục. Đối với vấn đề nhân quả nghiệp báo cũng vậy. Có thể chúng ta không nắm hết quy luật tự nhiên này nhưng vì điều này do Đức Phật dạy. Chúng ta tin Phật nên cũng tin nhân quả vậy. 

Hữu Huệ | Giác Ngộ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2657)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6122)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3033)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3090)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3295)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3224)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3294)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4543)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2719)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5200)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3840)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3828)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3198)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4120)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5034)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3509)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6732)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3950)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3216)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3088)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2953)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5844)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4614)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3482)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2892)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3303)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4415)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5710)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6621)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3689)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4521)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4596)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3954)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3386)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4605)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6032)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5812)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3619)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4673)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4447)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4515)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4255)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4587)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8184)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3905)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5714)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5182)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6800)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6162)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5977)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5791)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6271)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6772)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4953)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5551)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6375)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3776)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5397)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10445)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6066)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant