Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tìm Hiểu Ý Nghĩa Đoạn Kinh "chữ Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" Trong Tăng Chi Bộ Kinh

26 Tháng Mười 201906:24(Xem: 5312)
Tìm Hiểu Ý Nghĩa Đoạn Kinh "chữ Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" Trong Tăng Chi Bộ Kinh

Tìm hiểu ý nghĩa đoạn kinh
"CHỮ VIẾT TRÊN ĐÁ, TRÊN ĐẤT, TRÊN NƯỚC"
Trong Tăng Chi Bộ Kinh

Thích Nữ Hằng Như

         
Đức Phật Người Dẫn Đường

          Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước"bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra. Kinh Tăng Chi Bộbộ kinh thứ Tư trong số năm bộ kinh Nikàya. Đó là: Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tương Ưng Bộ Kinh, Tăng Chi Bộ KinhTiểu Bộ Kinh.

          Kinh điển Phật giáo hiện nay còn lại 2 bộ kinh xưa nhất. Một bộ được ghi lại bằng tiếng Pàli gọi là Kinh Nikàya, còn một bộ xử dụng tiếng Sanskrit gọi là Kinh Àgama (A-hàm) gồm bốn Bộ là: Kinh Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tạp A-hàm, Tăng Nhất A-hàm.

          Cả hai bộ kinh đều đã được chư tôn thạc đức như các Ngài Thích Minh Châu dịch bộ Nikàya và quý Ngài Thích Thanh Từ, Thích Tuệ Sỹ, Thích Thích Đức Thắng... dịch Bộ A-hàm từ Hán tạng.

          Ngày xưa khi Đức Phật còn tại thế, những bài giảng của Ngài được truyền khẩu chứ không có ghi chép lại. Sau khi Đức Phật nhập diệt cho đến đầu Công Nguyên có 4 kỳ kết tập kinh điển.

          - Kỳ kết tập thứ nhất: Sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng 3 tháng, dưới triều Vua A-Xà-Thế, tôn giả Đại-Ca-Diếp (đệ nhất đầu đà) triệu tập 500 vị A-La-Hán kết tập kinh điển lần thứ nhất, mục đích để mọi người nhớ lại những lời dạy của Đức Phậtthực hành. Tôn giả Anan (đệ nhất đa văn) trùng tu Kinh, còn tôn giả Upali (đệ nhất trì giới) trùng tu Luât. Thời đó chỉ truyền khẩu hai tạng Kinh và Luật, chứ không có ghi lại bằng chữ viết.

          - Lần thứ nhì: Vào năm 444 trước Công Nguyên, sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng 100 năm. Ngài Da-Xá lúc bấy giờ 165 tuổi, là vị đệ tử xuất gia thứ sáu của Đức Phật sau năm anh em Kiều Trần Như,  đã triệu tập 700 vị Trưởng lão, kết tập kinh điển lần thứ hai, tụng đọc lại Kinh-Luật, chủ ý là Luật, lý do vì Ngài Da-Xá phát hiện chư tăng Bạt Kỳ mở phong trào mới xin tiền cư sĩ khi thuyết pháp. Lần kết tập này cũng đọc tụng truyền khẩu chứ không ghi chép bằng chữ viết.

          Kể từ lần kết tập kinh điển này, Giáo Đoàn Phật Giáo Nguyên Thuỷ rạn nứt làm hai. Đầu mối phân liệt này xảy ra là do nơi chư tăng Bạt-Kỳ muốn sống nương tựa vào sự cúng dường của quần chúng không còn tôn trọng luật lệ Đức Phật đã qui định. Trong khi đó, Trưởng Lão Bộ (nhóm Ngài Da-Xá) là những vị bảo thủ, quyết duy trì Giới luật của Đức Phật đưa ra.

          - Lần thứ ba: Vào khoảng năm 308 trước Công Nguyên, sau khi Đức Phật nhập diệt 236 năm, do vua A-Dục bảo trợ, tôn giả Mục-Kiền-Liên Tu-Đế chủ toạ kỳ kết tập kinh điển lần thứ ba. Lần này kết tập Kinh-Luật-Luận gọi là Tam tạng kinh điển. Kinh và Luật là lời Phật dạy, còn Luận là do chư Tổ sáng tác. Có ghi lại văn bảng bằng chữ Pali.

          - Lần thứ tư: Vào đầu Công Nguyên thứ nhất, khoảng 500 năm sau khi Đức Phật nhập diệt dưới triều đại vua Ca-Nị-Sắc, Ngài Thế Hữu chủ trì kết tập tam tạng kinh điển lần thứ Tư, Ngài Mã Minh nhuận sắc lại bản viết bằng tiếng Sanskrit.

          Đó là lý do tại sao Phật giáo có hai bộ kinh tạng Nikàya (tiếng Pali) và Àgama (tiếng Sanskrit). Hai Bộ có nhiều điểm giống nhau và cũng có nhiều điểm khác nhau.

 

Kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước"

          Nội dung bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước", Đức Phật đã đề cập đến phản ứng khác nhau của ba hạng người khi nóng giận. Hạng người thứ nhất nóng giận lâu dài như chữ viết trên đá. Hạng người thứ hai nóng giận nhưng mau quên như chữ viết trên đất. Hạng người thứ ba dù bị xúc phạm nặng nề nhưng vẫn dễ hoà hợp, hoan hỷ, thân thiện, giống như chữ viết trên nước.

 

I. NGUYÊN VĂN KINH

          130.- Chữ Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước.

          " 1. Ba hạng người này, này các Tỷ kheo, có mặt xuất hiện ở đời. Thế nào là ba? Hạng người như chữ viết trên đá, hạng người như chữ viết trên đất, hạng người như chữ viết trên nước.

          Và này các Tỷ-kheo, có người luôn luôn phẫn nộphẫn nộ của người này tiếp tục lâu dài. Này các Tỷ kheo, ví như chữ viết trên đá không bị gió hay nước xoá mau chóng, được tồn tại lâu dài. Cũng vậy, này các Tỷ kheo, ở đây có người luôn phẫn nộphẫn nộ của người ấy tiếp tục lâu dài. Này các Tỷ kheo, đây là hạng người như chữ được viết trên đá.

          2. Và này các Tỷ kheo, thế nào là hạng người như chữ được viết trên đất?  Ở đây, này các Tỷ kheo, có người luôn luôn phẫn nộphẫn nộ của người này không có tiếp tục lâu dài. Ví như, này các Tỷ kheo, chữ được viết trên đất bị gió hay nước xoá tẩy mau chóng, không có tồn tại lâu dài. Cũng vậy, này các Tỷ kheo, ở đây, có người luôn luôn phẫn nộphẫn nộ của người này không có tiếp tục lâu dài. Này các Tỷ kheo, đây gọi là hạng người như chữ được viết trên đất.

          3. Và này các Tỷ kheo, thế nào là hạng người như chữ viết trên nước? Ở đây, này các Tỷ kheo, có người dầu bị nói một cách kịch liệt, dầu có bị nói một cách ác độc, dầu có bị nói một cách thô lỗ, tuy vậy, vẫn dễ dàng hoà hợp, thân thiện, và hoan hỷ. Này các Tỷ kheo, ví như chữ viết trên nước được mau chóng biến mất, không có tồn tại lâu dài. Cũng vậy, này các Tỷ kheo, có người dầu bị nói một cách kịch liệt, dầu có bị nói một cách ác độc, dầu có bị nói một cách thô lỗ, tuy vậy, vẫn dễ dàng hoà hợp, thân thiệnhoan hỷ. Này các Tỷ kheo, đây gọi là hạng người như chữ viết trên nước.

          Ba hạng người này, này các Tỷ kheo, có mặt, xuất hiện ở đời."

 

II. TÌM HIỂU

          - Tỷ-Kheo: Tỷ-kheo là chữ dịch theo âm của tiếng Phạn là Bikkhu chỉ nam tu sĩ Phật giáo. Tỳ-kheo-ni dịch theo âm Bikkhuni chỉ nữ tu Phật giáo. Ngày nay các vị mới xuất gia thọ 10 giới gọi là Sa-di hay Sa-di-ni. Sau một thời gian tu tập, thọ Cụ-Túc-Giới, Tăng 250 giới, Ni 348 giới mới gọi là Tỷ-Kheo hay Tỳ-Kheo-Ni.

          - Phẫn nộ: Căm hờn, tức giận cao độ không kiềm chế được.

          - Kịch liệt: Chỉ sự "mạnh mẽ, quyết liệt" quá sức kiểm soát

          - Ác độc: Lời nói hay hành động tàn ác, thâm hiểm gây đau đớn cho nạn nhân.

          - Thô lỗ: Lời nói thô tục, lỗ mãng trong cách giao tiếp, đối xử.

          - Hoà hợp: Hài hoà, không chống trái lẫn nhau.

          - Thân thiện: Biểu hiện sự tử tế, dễ gần gủi và có thiện cảm với nhau.

          - Hoan hỷ: Hân hoan, vui mừng sung sướng biểu lộ rõ trên nét mặt, cử chỉ, lời nói.

          - Hạng người như chữ viết trên đá: Ý nói trên đời này có hạng người khi phẫn nộ, căm giận ai thì sự phẫn nộ này kéo dài khó chấm dứt. Sự phẫn nộ sân hận này khắc ghi trong tâm họ, cũng giống như chữ viết khắc trên đá, gió hay nước mưa không tẩy xoá được. Đức Phật xếp hạng người này như chữ được viết trên đá.

          - Hạng người như chữ viết trên đất: Ý nói cơn giận, cơn phẫn nộ của người này xuất hiện, nhưng không kéo dài, cũng giống như chữ viết trên mặt đất, chỉ một thời gian ngắn, chữ viết bị nước cuốn trôi hay gió thổi xoá mất. Đức Phật xếp hạng người này như chữ được viết trên mặt đất.

          - Hạng người như chữ viết trên nước: Ý nói người này dù bị những lời phỉ báng kịch liệt, ác độc hay thô lỗ nhắm vào mình, mà vẫn dễ dàng hoà hợp, hoan hỷthân thiện, giống như chữ viết trên nước không tồn tại. Đức Phật xếp hạng người này như chữ được viết trên nước.

 

III. BÀI HỌC VỀ SÂN HẬN

          Khi đề cập và so sánh thái độ của ba hạng người phẫn nộ này, phải chăng Đức Phật đã gởi một thông điệp nhắc nhở cho chúng ta biết rằng căn bệnh Sân là một căn bệnh nguy hiểm, được nhắc tới trong kinh, đó là một trong tam độc "Tham, Sân, Si". Nó có thể huỷ diệt đời mình và làm tổn thương đến những người liên hệ thân thiết xung quanh.

          Như vậy thế nào là Sân hận: Sân hận hay phẫn nộ được hiểu như là một trạng thái tâm nóng nảy, căm giận. Khi cơn sân hận lên tới cực điểm thì tâm trạng của người nổi sân có khuynh hướng muốn tiêu diệt, đập phá bởi không thể kiềm chế nổi.

          Nguyên nhân:

          Ban đầu có thể chỉ là một điều gì đó xảy ra không vừa ý, không thoả mãn niềm mong muốn đưa đến sự bực tức khó chịu. Nếu sự bực tức này kéo dài kèm theo những tác ý tiêu cực, thêm những tác động từ bên ngoài đưa tới như lời nói châm biếm, chê bai, hạ nhục... khiến cho người này nổi giận. Khi cơn giận gia tăng đến cực điểm người ta thường gọi trạng thái đó là giận dữ, là sân. Nếu cơn sân kéo dài đưa tới sự căm thù oán hận, gọi là sân hận.

          Những biểu lộ của cơn sân:

          Cơn sân biểu lộ qua cử chỉ hành động và sắc mặt con người như da mặt tái xanh, mắt đỏ ngầu, môi giật, tay chân run rẩy. Người nổi sân thường vận dụng toàn bộ sức lực la hét, chưởi bới thô tục, đập bàn đập ghế, xô ngã vật dụng, hoặc biểu hiện bằng cách giậm chân, nhảy đông đổng, thậm chí muốn tấn công tiêu diệt người khác.

          Người nổi sân có khi tự hành hạ thân thể mình để uy hiếp đối phương, như tự bứt tóc, bứt tai, đập đầu, đấm ngực của mình và la hét quá độ đến không thở được, ngã lăn ra bất tỉnh...

          Khi cơn sân nổi lên thường ít có người bình tĩnh, họ có những hành vi khiếm nhã làm mất đi phẩm hạnh cao quý của mình vì hận thù che mờ lý trí. Những lời nói độc địa, tàn nhẫn gây đau đớn cho đối phương và tạo nghiệp ác cho chính bản thân mình.

          Khi bàn về sự giận dữ, thiền sư Nhất Hạnh có viết một câu thật chí lý đó là: "Nuôi cái Giận trong lòng, khác nào uống thuốc độc mà trông chờ người khác chết...". Quả thật khi căm giận, căm hờn người nào, mình chỉ muốn đối phương đau khổ chết đi. Nhưng đối phương không chết, mà cơn Sân đang hoành hành đánh gục chính bản thân mình.

          Thời bây giờ, theo khoa học não bộ, khi con người nổi giận, tín hiệu tác động vào các cơ chế trong não bộ như Dưới Đồi, Cơ Cấu Mạng Lưới, Giao Cảm thần kinh tiết ra các chất sinh hoá học như Norepinephrine, Epinephrine... Những chất này tiết ra quá nhiều sẽ làm hại tim, gan, bao tử, mất ký ức, huyết áp cao, đứt mạch máu não, hay những căn bệnh tâm thể khác...

          - Trong nhà Phật, Sân bị xem là căn bệnh, là thứ xấu xa mà người Phật tử cần phải loại trừ ra khỏi đời sống của mình. Đức Phật vẫn thường so sánh "sân hận như đám mây vô minh che lấp mặt trời trí huệ". Khi giận quá không kiềm chế được, con người ta thường hành động theo bản năng không kịp suy nghĩ, để sau đó hối hận thì chuyện đã rồi. Đức Phật cũng từng nói: "Một niệm sân khởi lên, đốt cả rừng công đức". Mình là người Phật tử, giữ giới, hành thiện, bòn từng chút công đức. Vậy mà trong cơn sân hận mình có hành động cử chỉ lời nói thô lỗ hại người, hại vật... ngay lúc đó bao nhiêu công đức của mình cháy rụi theo cơn lửa giận.

 

IV. CÔ LẬP "SÂN HẬN"

          Khi cơn giận dữ nổi lên, người ta bảo hãy uống một ly nước mát cho cơn giận hạ xuống. Nhưng mà khi chúng ta đưa ly nước cho người đang trong cơn sân hận thì chuyện gì xảy ra? Tâm lý chung, phản ứng của người đang sân sẽ hất mạnh khiến ly nước bị rơi xuống đất bể tan tành. Một số quý ông trị bệnh sân bằng cách uống rượu đến say mèm, hay hút thuốc lá hết điếu này đến điếu khác, để giúp quên đi cơn bực dọc. Chữa cháy kiểu này, không sớm thì muộn lại mắc thêm bệnh ghiền rượu, ghiền thuốc có hại cho sức khoẻ. Lại thêm một chuyện khác là có người say rượu nằm ngủ một giấc, khi thức dậy quên đi cơn giận, nhưng cũng có người rượu vào lời ra ... đưa đến những phiền não khác. Tốt nhất là nên tu tập ngừa bệnh hơn trị bệnh.

 

Tu tập như thế nào?

          Trong kinh "Trừ Khử Hiềm Hận", hiềm hận là hiềm khích, hận thùliên hệ  mật thiết với sân hận, Đức Phật dạy 5 cách trừ khử hiềm hận là tu tập "phát huy tâm từ, tâm bi, tâm xả, vô niệm tức vô tác ý". Đồng thời phải biết rằng hiềm hận sanh ra là do Nghiệp mình đã và đang tạo, nên cần phải trừ khử nó đi.

          Dựa theo lời dạy của Đức Phật, chúng ta thực hành một số phương thức để ngăn ngừa căn bệnh sân hận nguy hiểm này.

          - Thiền Quán: Nhờ học Phật, chúng ta hiểu ai cũng có 2 mặt tốt và xấu. Mặt tốt là người nào cũng có Phật tánh. Mặt xấu là do vô minh che mờ trí huệ, nên khi cơn giận nổi lên không kiểm soát được. Vì thế khi đối mặt với người đang sân hận, chúng ta nên khởi lòng từ bi thương xót bằng cách tập "hạnh lắng nghe với tâm từ bi". Nếu cần phải nói thì nên xử dụng lời nói nhẹ nhàng trong kinh gọi là "ái ngữ".

          - Học quy luật "Tương quan nhân quả" chúng ta hiểu rằng, mình gieo Nhân nào thì trước hay sau gì mình cũng sẽ nhận Quả nấy. Căn bản thì khi mình làm việc lành thì sẽ nhận quả lành, làm ác thì sẽ nhận quả ác. Sự kiện nổi Sân là mình đang tạo Nghiệp xấu. Vì thế mình nên tu tập thiền, không tác ý gì hết, tâm an trú trong Vô Niệm, thì trừ khử được tâm Sân.

          - Thiền Định:

          Thu thúc lục căn, thực tập các chiêu thức: Dùng giác quan tu tập như nghe tiếng chuông, thư giãn lưỡi, thiền hành, nhìn xa, nhìn gần, nhìn lưng chừng giữ niệm Biết Không Lời về đối tượng, không phê phán, khen chê tức không nói thầm trong não, tâm được yên lặng. Các chiêu thức này thuộc về thiền Chỉ/Samatha.

          Hằng ngày tập giữ chánh niệm trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi. Tập nhìn, nghe, xúc chạm "biết như thực" về đối tượng, tức biết "cái đang là" của đối tượng, an trú trong bây giờ và ở đây, tâm hoàn toàn yên lặng.

           Trạng thái tâm yên lặng vững chắc thì gọi là Định (Samàdhi). Muốn kinh nghiệm định sâu, cần toạ thiền theo pháp Thở hay pháp Không Nói. Thực tập từ thấp an trú trong trạng thái Biết không lời (Tánh Giác) lên cao là Nhận thức biết không lời (Tâm Như).

          Người tu tập kinh nghiệm Tâm Bất Động thì cô lập được lậu hoặc, tham, sân, si. Dù có bị ai gây hấn, nói những lời ác độc thì người đó vẫn dễ dàng hoà hợp, thân thiện, vui vẻ, bởi vì người đó tuy sống giữa cuộc đời nhiễu nhương bụi trần nhưng tâm người đó rỗng rang thanh tịnh, không bị gió đời lôi cuốn vào bể sân hận khổ đau. Đức Phật xếp hạng người này là hạng người  như "chữ viết trên nước."

 

V. KẾT LUẬN

          Đoạn kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" tuy ngắn và đơn giản nhưng chứa đựng bài học sâu sắc giá trị. Chúng ta biết rằng con người sanh ra ở đời, chuyện hân hoan hay phẫn nộhai mặt của một đồng tiền. Hễ gặp điều vừa ý thì hân hoan vui vẻ, gặp chuyện trái lòng thì bất mãn, phẫn nộ. Đây là trạng thái tâm lý bình thường của người thế gian. Nhưng theo nhà Phật thì hành vi cũng như cấp độ sân hận của mỗi người còn tuỳ thuộc vào Nghiệp Quả đã gieo trồng từ trước.

          Như bài kinh vừa nêu trên, có hạng người nóng tánh phẫn nộ khi gặp chuyện không hài lòng, và cơn phẫn nộ này kéo dài rất lâu, như những chữ khắc sâu vào đá, mưa gió bão bùng cũng khó phai nhoà. Hạng người này tự làm khổ bản thân mình vì sự phẫn nộ lâu dài thiêu đốt tâm cang của chính mình. Và vì dễ phẫn nộ nên cũng ít có người dám đến gần kết thân. Ngay cả vợ con cũng không dám đến gần khi người này lên cơn phẫn nộ. Nếu tình trạng này lặp đi lặp lại hoài, đến một ngày nào đó, vợ chồng đi đến ly thân ly dị cũng không có gì phải ngạc nhiên.

          Một hạng người nữa cũng dễ phẫn nộ nhưng mau khắc phục cơn giận. Đây là người biết kiềm chế và nhẫn nhịn, như chữ viết trên đất mưa gió dễ thổi bay. Người này đỡ khổ hơn hạng người trên.

          Còn người không giận khi bị người khác xúc phạm nặng nề là hạng người như chữ viết trên nước. Đây là người có hành trì tu tập, lúc nào cũng an trú trong tâm bậc thánh nên tám gió thổi không động.

          Nói về tu tập, Đức Phật dạy chúng ta nhiều phương thức. Sau khi học hỏituệ tri những điều Đức Phật dạy, chúng ta nên chọn cách tu thẳng để diệt tận gốc "tham sân si", chứ không tu ngoài cái ngọn.

          Qua giáo lý "Tứ Diệu Đế" thì nguồn gốc của khổ đau chính là Tham ái, là khao khát không bao giờ biết đủ về tài, sắc, danh, thực, thuỳ... là năm món dục mà người đời ai cũng bị dính vào. Những thứ này không được thoả mãn thì cơn Sân hận nổi lên. Như vậy Tham là nguồn gốc của Sân. Sân là nguồn gốc của Vô Minh. Là con người mà không có trí sáng suốt, tức không có trí huệ, thì mãi mãi bị luân hồi trong biển khổ.

          Nếu hành giả tu tập an trú trong Tánh Giác, tức an trú "trong bây giờ và ở đây" mọi lúc mọi thời, thì năm triền cái "Tham, Sân, Hôn Trầm, Trạo Cử, Nghi Ngờ" bị triệt tiêu, mặt trời trí huệ chắc chắn sẽ hiển lộ soi sáng con đường tâm linh, giúp chúng ta từng bước tiến gần đến mục tiêu thoát khổ giác ngộgiải thoát.

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

October 14 - 2019

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5208)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2674)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6153)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3069)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3117)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3325)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3251)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3309)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4573)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2741)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5234)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3890)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3854)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3219)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4158)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5071)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3533)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6767)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3979)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3231)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3110)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2974)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5884)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4648)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3508)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2910)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3321)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4441)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5738)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6651)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3738)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4545)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4624)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3987)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3414)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4649)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6076)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5855)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3649)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4704)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4469)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4546)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4280)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4611)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8234)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3935)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5734)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5223)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6871)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6195)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6006)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5820)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6313)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6805)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4986)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5583)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6406)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3799)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5438)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10485)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant