Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bồ Tát Hạnh Trong Kinh Viên Giác

23 Tháng Hai 201509:35(Xem: 8628)
Bồ Tát Hạnh Trong Kinh Viên Giác
BỒ TÁT HẠNH TRONG KINH VIÊN GIÁC

Thích Nguyên Tịnh



Bồ Tát Hạnh Trong Kink Viên GiácChúng ta phải nhận ra, mọi lời thuyết pháp của chư Phật đều nhằm chỉ thẳng tâm, không nên bám chặt vào tên và lời, bởi đó chỉ là ngón tay đưa lên, còn đích chúng ta thấy phải là mặt trăng vằng vặc vượt ra khỏi giới hạn của ngón tay kia.

1. Ý nghĩa Bồ-tát:

Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh. Bồ-tát là vị đã giác ngộ nhưng còn trụ lại kiếp chúng sanh để độ đời. Bồ-tát, từ người mới bắt đầu (sơ phát tâm) cho đến những vị đã nhiều đời sống theo hạnh Bồ-tát (Đại Bồ-tát) đều có một hướng đi rõ rệt: nỗ lực sống giải thoátgiác ngộ bằng chính cuộc đời mình và dùng cuộc đời đó để giúp đỡ những người khác giải thoátgiác ngộ. Hơn thế nữa, chính trong nỗ lực giúp đỡ người khác giải thoátgiác ngộ mà vị ấy thành tựu giải thoátgiác ngộ. Thâu tóm lại, Bồ-tát có hai công việc chính:

sở hoá độ của Bồ-tát (cũng gọi là Phẩm tính Bồ-tát): Tự mình giải thoátgiác ngộ. Đây là công việc của Trí tuệ soi thấy tánh Không hay Vô tự tánh của tất cả các hiện tượng (vạn pháp), của tất cả không gianthời gian. Công việc này được gọi là tích tập trí tuệ.

Phương pháp hoá độ của Bồ-tát (cũng gọi là Lý tưởng Bồ-tát): Phụng sự chúng sanh (để họ được giải thoátgiác ngộ). Đây là công việc của lòng đại bi. Sở dĩ gọi là “Đại” vì đó không phải là công việc của một đời mà là công việc của một số đời bằng công việc số đời của tất cả chúng sanh; công việc của một đời sống “không bỏ chúng sanh” và do đó mà “không sợ sanh tử luân hồi”. Phụng sự, làm lợi lạc cho chúng sanh phải trải qua nhiều đời, trong mọi mặt. Công việc này được gọi là tích tập phước đức.

Bồ-tát là một đời sống hòa hợp được hai mâu thuẫn: một mặt là giải thoát ra khỏi sanh tử; mặt khác không lìa bỏ sanh tử, hay là sự giải thoát sanh tử bằng Tánh Không (sự thật Vô ngãVô pháp) đồng thời không bỏ sanh tử vì lòng đại bi. Như thế, trên con đường Bồ-tát cuối cùng, hai cái mâu thuẩn chừng như mâu thuẫn đó trở thành một, bất khả phân. Kinh Viên Giác nói lên lý tưởng Bồ-tát dựa trên tinh thần liễu tri sanh tử. Hành giả tu tập thấy sanh tử không phải là một thứ gì đáng ghét và ghê gớm như một đống rác hôi hám nên vứt bỏ càng sớm càng tốt, mà rác cũng có tính ưu việt của nó, đây là mặt tích cực của sinh tử trên con đường chứng đắc Phật quả. Cũng nhờ đó mà chúng ta bảo, Bồ-tát có sự nhớ ơn sâu sắc sanh tửchúng sanh.

2. Cơ sở hoá độ của Bồ-tát:

Danh từ Bồ-tát, không biết từ lúc nào đã đi vào lòng người như một hình ảnh lung linh và điển hình. Chúng ta có thể bắt gặp Bồ-tát qua những hình ảnh rất quen thuộc như Bồ-tát Di Lặc, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Phổ Hiền v.v... hoặc qua hình ảnh chư vị Thánh tăng trọn đời hy sinh cho sự nghiệp xiển dương chánh pháp, hóa độ chúng sanh. Bên cạnh đó, vị Bồ-tát còn được biết đến dưới nhiều hình tướng dung dị tùy cơ nghi phụng sự cõi Ta-bà.

Bồ-tát đạo là con đường không dễ thực hành trọn vẹn. Nếu tâm niệm không kiên định, ý chí không vững bền, không mang trong mình đại nguyệnThượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” thì hành giả sẽ chẳng bao giờ đi trọn trên hành trình nhiệm mầu mà lắm gian nan đó cả.

Dĩ nhiên, chúng ta không thể nói hết những phẩm tính của Bồ-tát, bởi trong quá trình thăng tiến qua nhiều kiếp sống, những đức tính nào con người có thể có, đều được khai triển một cách hoàn hảo ở nơi một Bồ-tát. Trong bài viết giới hạn này, chúng ta chỉ đề cập đến những phẩm cách của Bồ-tát dựa trên tinh thần Kinh Viên Giác mà thôi. Cơ sở hoá độ là kết quả có được của hành giả, hay có thể hiểu, đó là con đường mà một vị Bồ-tát phải đi, phải thành tựu dựa trên vô lượng pháp môn tu tập từ sơ phát tâm đến khi vượt qua Thập địa. Căn cứ vào đó mà Viên Giác chia Bồ-tát thành bốn đẳng cấp theo quá trình tu chứng gồm: phàm phu, trước Thập địa, nhập Thập địaPhật địa Viên Giác. Tu theo từng cấp độ như thế gọi là tiệm tu, còn tu tậpthành đạo nhanh chóng nhờ thượng căn gọi là đốn tu.

Qua từng phẩm Kinh Viên Giác, chúng ta thấy phẩm cách Bồ-tát được Thế-tôn dạy rất căn bảncặn kẽ sau mỗi vấn đề được đặt ra của các vị Đại Bồ-tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Phổ Nhãn, Kim Cang Tạng, Oai Đức Tự Tại... Phẩm cách thuộc về phần tự độ, chính là pháp môn tu tập. Và xuyên suốt cả bổn Kinh, Thế-tôn không dạy gì ngoài giáo lý căn bản như Duyên Khởi, Ngũ uẩn, Niệm Xứ, ... đó gọi là Đại Đà-la-ni (大陀羅尼), lưu xuất hết thảy Chân như thanh tịnh, Bồ đề, Niết bàn cũng như Ba-la-mật, cũng gọi là Nhân địa của Như-lai (因地如來) hay Pháp hạnh Nhơn địa (因地法行). Bồ-tát phải tu tập diệt trừ vô minh như trừ đi cơn bệnh lâu ngày. Tiếp theo những câu hỏi của Ngài Văn ThùPhổ Hiền, Ngài Phổ Nhãn đã đặt vấn đề cầu xin đức Phật khai thị thật vô cùng thiết thựctrở thành nội dung chuẩn mực thâu tóm toàn bộ bản Kinh: “Mong Phật vì những chúng Bồ-tát trong hội này và vì tất cả chúng sanh đời mạt pháp giảng nói các vấn đề thứ lớp tu hành của Bồ-tát: Làm sao tư duy? Làm sao trú trì? Chúng sanh chưa ngộ làm phương tiện gì khiến cho tất cả đều được khai ngộ?” (云 何 思 惟? 云 何 住 持? 眾 生 未 悟 作 何 方 便 普 令 開 悟 ?) (Phẩm Phổ Nhãn Bồ-tát vấn Phật, thứ 3).

Câu hỏi trên cũng tương tự như câu mà Trưởng lão Tu-bồ-đề đã hỏi đức Phật ở Kinh Kim Cương: “Thế-tôn! Những thiện namthiện nữ muốn phát tâm vô thượng Chánh đẳng giác thì nên trú tâm vào đâu? Nên điều phục tâm như thế nào?” (世 尊! 善 男 子, 善 女
人, 發 阿 耨 多 羅 三 藐 三 菩 提 心, 應 云 何 住?
云 何 降 伏 其 心?) (Kinh Kim Cương, đoạn Thiện Hiện khải thỉnh, thứ 2).

Xuyên suốt bản Kinh với những lời cầu thỉnh về phương pháp tu tập của chư Đại Bồ-tát, Thế-tôn đã trả lời với những cách khác nhau nhưng đều y cứ những pháp môn căn bản dựa trên nền tảng Thiền định. Trong Thiền định, hành giả phải liễu đạt rõ ràng bản chất của Vô minh. Chính vô minh là đầu mối của mọi sanh tử khổ đau và gây không biết bao nhiêu nhiệt não chông gai cho người hành đạo.

Ở những phẩm đầu tiên, đức Phật đề cập tổng quát về Vô minh, trong những phẩm tiếp theo, Ngài đã chỉ tận gốc rễ sự vô minh gây khổ đau là vì tham ái và dục phát sinh mà không thể chánh niệm tỉnh giác được. Phẩm Di-lặc Bồ-tát vấn Phật, Như-lai đã dạy rất rõ, sở dĩ chúng sanh luân hồi mãi trong bùn lầy tử sinh là do bị tham ái và dục chiếm hữu. Vì thế, Bồ-tát tu tập cần phải thấy một cách tường tận: vòng xoáy luân hồi, Ái là căn bản. Do các dục giúp ái tánh phát sinh, nên khiến sanh tử nối nhau. Dục nương ái sanh, Mạng nương dục mà có. Ái mạng của chúng sanh lại nương nơi gốc dục. Ái dục là nhân, Ái mạng là quả.

Nói như vậy có nghĩa hành giả muốn bước đi trên lộ trình của Bồ tát phải quán chiếu gốc rễ sanh tử do ái để từ đó đoạn trừ, tức phải nhìn thấy bản chất của ái, vị ngọt của ái, sự tập khởi của ái và sự đoạn diệt của ái một cách triệt để. Điều này không phải dễ dàng vì chúng ta có mặt ở cuộc đời này cũng từ tham ái, cần phải nỗ lực thắng lướt mọi thói quen, mọi tư duy sai lầm bằng cách khởi Chánh tri kiến nhằm bỏ Lý chướngquyết tâm cắt đứt nguyên nhân sanh tử nhằm bỏ Sự chướng.

Bồ-tát phải cầu tất cả Chánh tri kiến để định hướng việc tu tập chuẩn mực, điều này cần đến những tinh tấn trong thiền định mà phẩm Oai Đức Tự Tại Bồ-tát Vấn Phật đã sơ lược có ba phương pháp:

Thứ nhất, tu tập Xa-ma-tha (奢 摩 他) dần dần khiến tâm vắng lặng như gương chiếu. Đây cũng gọi là tu Thiền Chỉ. Thứ hai, tu tập Tam-ma-bát-đề (三 摩 缽 提) dần dần nhìn thấy các pháp đều như huyễn như mộng nhằm viễn ly tham muốn chấp thủ. Đây cũng gọi là tu Thiền Quán. Thứ ba, tu tập Thiền-na (禪 那) dần dần lặng dứt mọi tâm niệm như âm thanh im bặt trong đồ vật, không bao giờ còn cơ hội vọng thanh nữa. Đây cũng gọi là đoạn phân biệt nhằm thấy thật tướng.

Vận dụng ba pháp Thiềp tập này, cũng có nghĩa là chúng ta hành trì Thiền Tứ Niệm Xứ:

Niệm Thân tức quay lại quán chiếu thân Tứ Đại dựa trên những đặc tính Khổ, Vô thường, Vô ngã;

Niệm Thọ tức nhìn vào những cảm thọ về khổ, vui, không khổ không vui dựa trên những đặc tính Khổ, Vô thường, Vô ngã;

Niệm Tâm tức trở lại nhìn vào những chuyển biến của tâm thức nhằm có thể điều khiển tâm một cách thiện xảo dựa trên những đặc tính Khổ, Vô thường, Vô ngã;

Niệm Pháp tức nhìn vào những hiện tượng hiện hữu giữa cuộc đời dựa trên những đặc tính Khổ, Vô thường, Vô ngã.

Đó chính là những pháp tu truyền thống mà bất kì Kinh điển nào chúng ta cũng có thể thấy được, và Kinh Viên Giác cũng không nằm ngoài trường hợp ấy. Bên cạnh đó, có một điều mà Bồ-tát luôn luôn khắc ghi trong từng tâm niệm, đó chính là vấn đề giữ giới. Ngài Phổ Nhãn sau khi hỏi pháp tu tập cho Bồ-tát đã được Thế-tôn dạy, muốn cầu tâm thanh tịnh viên giác của chư Như-lai, phải nên chánh niệm xa lìa các huyễn, trước y theo hạnh Xa-ma-tha của Như-lai, giữ kỹ cấm giới, xử an đồ chúng... (欲 求 如 來 淨 圓 覺 心, 應 當 正 念, 遠 離 諸 幻, 先 依 如 來 奢 藦 他 行, 肩 持 禁 戒, 安 處 徒 眾...). Giới là pháp hành không thể thiếu với một đệ tử Phật xuất gia cũng như tại gia. Giới là chánh thuận với căn bản của Giải thoát, nhờ giới mà Thiền định được thành tựu, và Trí tuệ nương đây mà được quán triệt. Trong các chúng hội, giới luật nào cũng được đặt nền tảng dựa vào Ngũ giới, những giới sau đều khai triển từ đây mà thành.

Bồ-tát vì lòng từ bi, giới luật trở thành phục sức tốt đẹp nhất trên bước đường tu tập và hoằng hoá. Giới là hiện thân của Tánh giác. Khi chưa thấy Tánh, một người chìm đắm trong mê mờ sanh tử cùng những ràng buộc nhỏ hẹp, tự giết chết tâm Phật của mình, đây là tội giết người nặng nhất trong những tội giết người. Khi những tư tưởng mê lầm tiếo tục sanh khởi và kéo dài, ta tự huỷ báng kho tàng Phật pháp, làm hư hao công đức, đó là lúc ta trở thành tên cướp giựt nguy hiểm.

Khi những mê lầm sanh khởitiếp tục được nuôi dưỡng, ta sẽ mãi tạo thêm nghiệp bất thiện, mãi bắt tay mê mờ theo những thói quen đau khổ, đó là lúc ta mắc tội tà hạnh. Khi mù quáng với những tư tưởng sai lầm, ta dù diễn nói pháp tới đâu cũng rơi vào tội đại vọng ngữ chứ có ích gì. Khi bị cô lập trong tư tưởng sai lầm, trí tuệ không thể phát sinh, mọi thấy biết đều mập mờ, đó là lúc tâm trí ta không khác gì một gã say rượu. Ngược lại với những điều trên là một hành giả được mệnh danh giữ giới thanh tịnh, không có chút tỳ vết, hàng được bậc Thánh ca ngợi. Một vị Bồ-tát phải nhìn giới luật trên bình diện đó nhằm thăng tiến hơn đạo hạnh, để biết rằng, giữ giới chân thậtcon đường giác ngộ nhanh nhất trong việc thấy bộ mặt rõ ràng của bản tánh.

Khi những phẩm cách Bồ-tát đã thành tựu thì lại bước qua địa vị khác-địa vị Bồ tát thượng thủ, “Bồ-tát chẳng cầu pháp trói buộc, chẳng cầu pháp cởi mở, chẳng ưa Niết-bàn, chẳng kỉnh người trì giới, chẳng ghét người phá giới, chẳng trọng kẻ quen lâu, chẳng khinh người mới học, vì tất cả đều là giác tánh” (不 與 法 缚, 不 求 法 脫 , 不 厭 生 死 , 不 愛 涅 槃, 不 敬 持 戒, 不 憎 毀 禁, 不 重 久 習, 不 輕 初 學, 何以 故? 一 切 覺 故!) (Phẩm Phổ Nhãn Bồ-tát vấn Phật, thứ 3).

Vì thế, theo Kinh Viên Giác, Bồ-tát được định nghĩa là người xa lìa cấu huyễn (對 離 幻 垢, 說 名 菩 薩), cũng đồng với nghĩa “Tất cả Bồ-tát và chúng sanh đời mạt pháp trước hết phải dứt hết vô thỉ cội rễ luân hồi” (一 切 菩 薩, 及 未 世 眾 生 先 斷 無 始 輪 回 根 本) (Phẩm Kim Cang Tạng Bồ-tát vấn Phật, thứ 4).

Ngay đây đã thiết lập một niềm tin lớn để hành giả nỗ lực tu tập nhằm đoạn tận mọi tham ái chấp trước - vốn là căn bản luân hồi. Niềm tin hễ đã lớn mạnh thì vạn pháp rất chóng thành tựu. Lời dạy đã đầy đủ cho một vị Bồ-tát, chúng ta chỉ còn việc lên đường, dấn thân mới mong thể nhập được vào chân lý thù thắng được.

3. Phương tiện hoá độ của Bồ-tát:

Bồ-tát vào cuộc đờinguyện lực từ bi hoá độ vô sô chúng sanh chứ không phải do nghiệp lực luân hồi như bao loại khác. Trong và sau khi hành trì chánh pháp, Bồ-tát luôn giữ trong mình những lý tưởng cao quý. Tất cả những lý tưởng đó không nằm ngoài mục đích tự độ và độ tha dựa vào các tác nhân Trí tuệTừ bi.

Nhờ Trí tuệTừ bi soi rọi mà Bồ-tát nhận chân được thế nào là con đường sáng, thế nào là hạnh phúc tối thượng, thế nào là con đường đem hạnh phúc tối thượng đó ban trải cho hết thảy chúng sanh một cách thù thắng. Tất nhiên, lý tưởng độ tha của Bồ-tát phải song hành cùng tinh thần tự độ như sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nước với sữa không thể tách rời. Hạnh phúc tự độ được nhắc nhở khá rõ ràngbài kệ Phẩm Phổ Nhãn:

普 眼 汝 當 知
一 切 諸 眾 生
身 心 皆 如 幻
身 相 屬 四 大
心 性 歸 六 塵
四 大 體 各 離
誰 為 和 合 者
如 是 漸 修 行
一 切 悉 清 淨
一 切 佛 世 界
猶 如 虚 空 崋
三 世 悉 平 等
畢 竟 無 來 去
初 發 心 菩 薩
及 未 世 眾 生
欲 求 入 佛 道
應 如 是 修 習

“Phổ Nhãn ông nên biết
Tất cả các chúng sanh
Thân tâm đều như huyễn
Thân tướng thuộc bốn đại
Tâm tánh thuộc sáu trần
Thể bốn đại đều lìa
Cái gì là hoà hợp?
Thứ lớp tu như vậy
Tất cả đều thanh tịnh
... ...
Hết thảy thế giới Phật
Cũng như hoa hư không
Ba đời đều bình đẳng
Rốt ráo không lai khứ
Bồ tát mới phát tâm
Cùng chúng sanh đời mạt
Muốn cầu vào Phật đạo
Phải tu tập như thế.”

Từ việc ý thức tự độ như thế, Trí tuệ phát khởi khiến Bồ-tát tự nhiên nuôi dưỡng lớn mạnh và thành tựu hạnh Từ bi, tức hạnh nguyện cứu độ hết thảy chúng sanh. Cả bản Kinh Viên Giác đều thể hiện mục đích Độ tha rất rõ ràngthiết thực. Mỗi phẩm Kinh đều được bắt đầu với những câu hỏi của chư Đại Bồ-tát, cụ thể từ phương pháp hành trì (Trí tuệ), đến hạnh nguyện hoằng hoá (Từ bi). Thật ra, khi chúng ta biết trau dồi phẩm hạnh cho mình thì từ bi hay nói cách khác, ánh mắt nhìn chúng sanh cũng sẽ rộng rãibao dung hơn. Không thể tìm thấy lòng yêu thương đích thực ở một người chẳng bao giờ biết chăm sóc tâm linh cho chính mình. Vì thế, ở Kinh Viên Giác, tất cả những câu hỏi của chư Bồ-tát đặt ra đều thành tựu hai mặt Cơ sở và Phương tiện hoá độ, tức thành tựuThượng cầu Phật đạo, hạ hoá chúng sanh”. Bồ-tát tu tập thấy rõ lý Duyên Sinh, không một pháp nào tồn tại độc lập, Sự Lý viên dungtương tức tương nhập, dù tất cả đều hiện hữu như Hư Không hoa nhưng phải khởi từ bi tâm quảng đại để biến cõi Ta-bà thành Hoa Tạng Thế Giới Hải, như Kinh Lăng Già có dạy:

世 間 離 生 滅
猶 如 虚 空 華
智 不 得 有 無
而 興 大 悲 心
Thế gian ly sanh diệt
Do như hư không hoa
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng đại bi tâm”.

Mười hai vị Bồ-tát đặt mười hai câu hỏi thiết thực trên lộ trình giải thoát. Mỗi câu hỏi mở ra một phương trời sáng cho chúng ta nhuyền nhuyễn trong lý tưởng thanh cao. “Bồ-tát trở vào trần lao độ các chúng sanh phải lập bao nhiêu phương tiện giáo hoá?” (迴 入 塵 勞, 當 設 幾 種 教 化 方 便 度 諸 眾 生?) (Phẩm Di-lặc Bồ-tát vấn Phật, thứ 5). Câu hỏi trên của Ngài Di-lặc cùng tất cả những câu hỏi tương tự vậy đều thiết lập niềm tin cho mỗi hành giả, giúp hành giả có cơ hội nhập vào hàng Thánh chúng. Lý tưởng Bồ-tát nhờ đây được thành mãn. Nhờ có Chánh Tri Kiến (điều mà Thế-tôn đã dạy đi dạy lại nhiều lần trong bản Kinh), Bồ-tát tu hành như thế, thứ lớp như thế, tư duy như thế, trụ trì như thế, phương tiện như thế, khai ngộ như thế, cầu pháp như thế, thấy năng sở đều không, chẳng cầu cảnh chứng. Và nhờ vào niềm tin kiên lập, Bồ-tát vào đời hoá độ chúng sanh không biết mệt mõi, chỉ mong chúng sanh thành tựu đạo nghiệp nhằm viễn ly mọi ràng buộc của ác pháp.

Như mũi tên bắn ngang đường chim bay khiến nó đoạn mạng, cũng như thế, Bồ-tát vào đời với tâm từ bi, dùng mọi phương tiện thiện xảo đoạn tận nghiệp chướng cho chúng sanh, khiến tất cả đều được thâu nhiếp trong căn bản của Pháp. Đây chính là lý tưởng tột vời mà hành giả cần định hướng và tinh tấn tu tập.

Bồ-tát khi trở lại suy xét chính mình thì cũng trong lúc ấy thấy được những tâm tánhchúng sanh. Sở dĩ như vậy vì tâm chúng sanh không ngoài tâm hành giả, cùng đeo mang những cảnh nghiệp, cùng chung nguyên nhân luân hồi, do đây tâm từ bi thêm lan toả trùm phủ lên người thân kẻ sơ, người nhanh kẻ lụt. Dần dần, khi tâm từ câu hữu lên khắp mọi đối tượng thì khái niệm về Ngã tướng, Nhơn tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tướng sẽ nhanh chóng được đoạn tận, như một người nhìn thấy huyễn pháp thì huyễn pháp tự trừ, biết được huyễn thuật sư đang biểu diễn thì những cảnh tượng mê hoặc được tạo ra không làm ta chướng ngại nữa. Cầu tất cả chánh tri kiến thì chánh tri kiến đó chính là thiện hữu, nhờ đó bốn thứ bệnh về Tác (làm), Nhậm (mặc), Chỉ (ngăn), Diệt (đứt) lập tức tiêu trừ và không còn cơ hội trở lại hại Thánh chủng của ta nữa.

Tất cả điều này sẽ thành tựu khi nào hành giả vào đời dùng tâm từ bi làm phương tiện mở bày những người chưa ngộ (菩 薩 唯 以 大 悲 方 便, 入 諸 世 間 開 發 未 悟). “Tâm đại bi (mahàkarumà) vốn là tinh thể của tam muội (samàdhi) vì bi tâmthân thể (saria), là cửa ngõ (mukha), là tiền đạo (Purvangama) của nó và là phương tiện tự hiện thân khắp vũ trụ. Nếu khônglòng từ bi, Tam muội của Phật dù có siêu nhập thế nào sẽ không có giá trị trong cuộc diễn xuất của một Kịch trường tâm linh vĩ đại. Đây quả là chỗ sai biệt giữa Đại thừa và tất cả các giáo thuyết đã có trước trong lịch sử đạo Phật...” (Thiền luận, Suzuki tập hạ, trích dẫn theo HT. Đức Thanh, Giáo trình Viên Giác, HVPGVN tai Huế 2007, tr 34). Đó được gọi là y cứ nguyện lực từ vô thỉ mà tâm thanh tịnh trong mỗi chúng ta đều viên chiếu tròn đầy.

Cuộc sống dù thế nào đi nữa, việc tu tập dù gặp bao nhiêu trắc trở đi nữa, hành giả cũng phải một lòng thương tưởng đến các chúng sanh đời mạt pháp, phải làm sao khiến tất cả đều an trú trong chánh pháp tuyệt đối mà chư Phật trong mười phương ba đời luôn tán thán. Tâm từ bình đẳng như hư không chẳng luận gò đồi hay vực thẳm, được Kinh Viên Giác gọi là “Bất xả vô giá đại bi” (不 捨 無 这 大 悲). Đạo quả này được thành tựu nhờ Bồ-tát đã quán triệt tâm mình và quán triệt tâm tha nhân, thấy rõ Tứ đế, Duyên khởi, Vô ngã y như cảm nhận được hơi thở của mình. Khi đã giác ngộ hay đang tiến dần trên con đường giác ngộ, Bồ-tát không bao giờ để rơi chúng sanh để an vui trong Niết-bàn. Mười hai vị Đại Bồ-tát trong Kinh Viên Giác chắc chắn đã thâm đạt giáo lý Như-lai, các Ngài phương tiện đặt câu hỏi trước đức Phật chỉ nhằm mục đích khiến các chúng sanh khác nương nơi đây mà biết được pháp môn tu tập, bởi trí tuệ phàm phu làm sao có thể hiểu được chân lý biểu hiện như thế nào mà thỉnh cầu. Chừng đó thôi, cũng đủ để thấy được lý tưởng Bồ-tát thâm sâu và đáng thực tập đến chừng nào.

Để kết thúc một vài nhận định về lý tưởng Bồ-tát trong Kinh Viên Giác, xin trích lời dạy vô cùng rõ ràngđức Phật đã thuyết giảng ở Phẩm Phổ Giác Bồ-tát vấn Phật: “Trong đời mạt, chúng sanh muốn cầu Viên giác, nên phát tâm mà nói lên rằng, tất cả chúng sanh tận cõi hư không, ta đều khiến vào hết trong Viên Giác rốt ráo” (末 世 眾 生, 欲 求 圓 覺, 應 當 發 心 作 如 是 言: 盡 於 虚 空, 一 切 眾 生, 我 皆 令 入 究 竟 圓 覺).

Nhận địnhkết luận:

Này các Tỷ-kheo, Ta đã được giải thoát khỏi tất cả bẫy sập ở Thiên giớiNhân giới. Này các Tỷ-kheo, các Ông cũng được giải thoát khỏi tất cả bẫy sập ở Thiên giớiNhân giới. Này các Tỷ-kheo, hãy du hànhhạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiênloài Người. Chớ có đi hai người một chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Hãy tuyên thuyết Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Có các chúng sanh sanh ra ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe pháp sẽ đi đến hoại diệt. Họ sẽ trở thành những vị thâm hiểu Chánh pháp. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ đi đến Uruvelà, thị trấn Senà để thuyết pháp...” (ĐTKVN, Tương Ưng Bộ I, Tương Ưng Ác Ma, Phẩm thứ I, Bẫy Sập, tr234-235).

Đây được xem như lời nói nhân bản đầu tiên bắt đầu cho cuộc hoằng dương chánh pháp với sự góp mặt của các đại đệ tử đức Phật, và việc làm lợi ích cho số đông này vẫn mãi được duy trì cho đến ngày nay. Có thể khẳng định, rằng, tư tưởng Bồ-tát đạo đã được manh nha và phát triển trong những ngày đầu từ lúc Thế-tôn thành tựu Vô thượng Chánh Đẳng Giác, bởi tinh thần sống của Tăng chúng không phải hưởng thụ những lợi ích riêng mình, không phải khổ hạnh mong xa lìa nghiệp cảm, mà vì hạnh phúc cho cả cộng đồng những nơi các Ngài có mặt. Các Tỷ-kheo đã bắt đầu hành Như Lai sự với tinh thần dấn thân; đi khất thực; tùy duyên giáo hóa; đem đời sống xuất ly ươm mầm trong tâm thức tha nhân; chỉ cho mọi người thấy được đâu là con đường sáng để thành tựu phạm hạnh, đâu là ngõ cụt có thể đưa đến thối đọa. Giáo đoàn hầu như đã thiết lập lại một trật tự sống phát xuất từ nội tâm cho tất cả các tầng lớp thời bấy giờ, bằng những lời dạy hết sức bình thường mà bất kì ai, thuộc tầng lớp giai cấp nào cũng có thể hành trì được.

Thế-tôn đã khẳng định, Ngài thuyết pháp không vì tranh chấp, tranh cãi, chiến tranh, luận tranh, mà vì mục đích giải thoát, cho nên, những gì bậc trí tán thán, Ngài cũng tán thán; những gì bậc chân nhân không chấp nhận, Ngài cũng không chấp nhận (Xem Tương Ưng Bộ III, Phẩm V, Bông Hoa, Tu Thư Phật Học Vạn Hạnh, 1982, tr 165-166).

Chúng sanh có tám vạn bốn ngàn căn bệnh khó chữa gói gọn trong tham-sân-si thì giáo lý Phật-đà có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn đối trịdiệt trừ tận gốc mọi căn bệnh đó.

Giáo lý mỗi nơi phô diễn mỗi cách khác nhau, theo mỗi ngôn ngữ khác nhau, theo
một trình độ nhận thức khác nhau tuỳ vào căn cơ đối tượng, đôi khi nó được ám chỉ là Pháp Độc Nhất và Kỳ Diệu; đôi khi là Viên Giác; đôi khi là Tổng trì (Đà-la-ni); đôi khi là Cõi Giới, đôi khi là Tịnh Độ; có nơi là Pháp Giới của Hoa Nghiêm; có nơi là Như-lai Tạng; có nơi là Phật Hương Tích, A Di Đà, Dược Sư, Phổ Hiền, Văn Thù, Di Lặc, Biện Âm,... Tất cả tên này đều chỉ rõ Nhất Tâm. Bản tánh của tâm này là bản nguyên chư Phật, nó là tên của tất cả các Kinh. Kinh Viên Giác cũng nằm trong nghĩa thâm mật đó.

Chúng ta phải nhận ra, mọi lời thuyết pháp của chư Phật đều nhằm chỉ thẳng tâm, không nên bám chặt vào tên và lời, bởi đó chỉ là ngón tay đưa lên, còn đích chúng ta thấy phải là mặt trăng vằng vặc vượt ra khỏi giới hạn của ngón tay kia. Nếu không như vậy, tất cả pháp ấy sẽ trở thành thuốc độc, hành giả sẽ phải thừa tự, sẽ phải là chủ nhân của ác nghiệp. Bất kỳ ở thời pháp và bản Kinh nào, chúng ta cũng phải dùng trí tuệ soi rọi, thấy được cốt yếu nội dung không ra ngoài Cơ sở hoá độ (Phẩm Cách tu tập) và Phương pháp hoá độ (Lý tưởng hoá độ chúng sanh). Hai nội dung này đan xen vào nhau không thể tách rời, một nội dung thành tựu thì nội dung còn lại cũng dựa vào đó để viên mãn. Sở dĩ phải phân chia bố cục như trên chỉ để chúng ta thấu hiểu được dễ dàng mà thôi, chứ thật ra, chỉ cần đọc, hoặc là Cơ sở hoá độ của Bồ-tát, hoặc là Phương pháp hoá độ của Bồ-tát, thì chúng ta có thể hiểu được chi phần còn lại. Kinh Viên Giác đã trình bày rất cụ thể hai nội dung trên từ phẩm đầu tiên cho đến phẩm cuối cùng.

Điểm then chốt trong mỗi từ mỗi ngữ nhằm giúp chúng sanh Kiến tánh để không phụ lòng với lời dạy, Giáo pháp của Như-lai là đến để mà thấy chứ không phải để chiêm ngưỡng như một triết lý mông lung. Giáo lý ấy thật dễ hiểu, gói gọn hoàn toàn vào hai từ “Trí Tuệ” và “Từ Bi”, nhưng chứng đạt được thì điều không phải dễ dàng. Và đó là chân trời mênh mông mà mỗi chúng ta đều có quyền lựa chọn và dấn thân!

Bồ-tát phát nguyện hoá độ tất cả chúng sanh vào Niết-bàn (Hạ hoá chúng sanh - lý tưởng độ tha) mà thật ra không thấy chúng sanh nào chân thật được độ (Thượng cầu Phật đạo - phẩm cách tự độ) (善 男 子, 善 女 人, 發 阿 耨 多 羅 三 藐 三 菩 提 心 者, 當 生 如 是 心: 我 應 滅 度 一 切 眾 生 已 而 無 有 一 眾 生 實 滅 度 者) (Kinh Kim Cương, đoạn 17, Cứu cánh Vô ngã), đó là tư tưởng cốt yếu của tất cả những bản Kinh Phật giáo.

Kinh Viên Giác với cái nhìn như thật đang là của các pháp cũng mở ra phương trời rất mới, ở đó chúng ta thấy được đường đi của chư Bồ-tát cũng như nền tảng hoá độ chúng sanh của các Ngài. Sự thông biện giáo pháp, tâm từ bi bình đẳng luôn là những gì được đề cao và được đức Phật nhắc đi nhắc lại, tạo thành chuẩn mực sống của đệ tử Như-lai trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai.

Viên Giác, tựa đề bản Kinh cũng đã cho ta thấy được phần nào diệu dụng của bản Kinh, muốn hết thảy chúng sanh thực hành Bồ-tát đạo và đều được an trú trong sự nhiệm mầu này nhờ thành mãn Vô ngã, Vô nhơn, Vô chúng sanh, Vô thọ giả. Chúng sanh bệnh là Bồ-tát bệnh, vì thế, Bồ-tát phải nỗ lực tìm cầu diệu dược cứu độ cho mình và cứu độ cho chúng sanh. Những căn bệnh do Vô minh, Tham ái, Dục vọng, Chấp thủ... hễ còn hoành hành là Bồ-tát còn hiện thân chữa trị cứu độ, có nghĩa là tinh thần Viên Giác vẫn còn lưu bố rộng khắp.

Chúng ta, những hành giả đang đi trên con đường thiêng liêng cao quý đó, cũng phải tinh tấn lòng dặn lòng nuôi dưỡng tâm từ cùng tăng trưởng trí tuệ, tự mình vượt qua bộc lưu và giúp người khác vượt qua bộc lưu. Đó chính là sự tri ân Tam bảo đúng nghĩa và thiết thực nhất, cũng là mục đích mà Kinh Viên Giác muốn trao truyền.

THAM KHẢO:

1. Lăng già a bạt đa la bảo kinh
楞伽阿跋多羅寶經. Lưu Tống, Cầu Na Bạt Đà La dịch, ĐTK 16, 479. Số hiệu 670.
2. Đại thừa nhập lăng già kinh
大乘入楞伽經. Đường, Thật Xoa Nan Đà dịch, ĐTK 16, 587. Số hiệu 672.
3. Kim cương bát nhã ba la mật kinh 金剛般若波羅蜜經. Diêu Tần Tam
Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch, ĐTK 8, 78. Số hiệu: 235.
4. Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm
Kinh Nhập Pháp Giới Phẩm 大方廣佛華嚴經入法界品. Đường Địa Bà Ha La dịch. ĐTK số hiệu 295.
5. Kinh Viên Giác. Thích Viên Đức dịch.Saigon: Bản in Ronéo.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7733)
Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập.
(Xem: 8540)
Trong một quyển sách nhỏ «Phật Giáo Nhập Môn» tác giả Fabrice Midal đã dành riêng một chương để tóm lược thật ngắn gọn một số các khái niệm căn bản...
(Xem: 10131)
Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương.
(Xem: 18570)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 14546)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 8849)
Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo...
(Xem: 8931)
Phẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi tức là không, cũng là giả danh về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo.
(Xem: 8220)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận và Du-già hành tông hay trường phái Duy thức...
(Xem: 9021)
Không là pháp quán chung của Phật giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của các tông phái khác.
(Xem: 14203)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 8468)
Niệm tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm...
(Xem: 15303)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13171)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 7824)
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc..."
(Xem: 16694)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15546)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 8997)
Chấp nhận một hình thức Phật giáo rồi dấn thân bằng thực nghiệm, hành giả không cần phải dành quá nhiều công sức cho những vấn đề lý thuyết và những mục tiêu lý tưởng của các truyền thống khác nhau.
(Xem: 7940)
Pháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc?
(Xem: 7130)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị".
(Xem: 11296)
Đạo Phậtđạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.
(Xem: 14300)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10503)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20491)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 8821)
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ"
(Xem: 9314)
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành...
(Xem: 24178)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12700)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 7838)
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng.
(Xem: 16290)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 15650)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 8764)
Indriya có nghĩa là căn, gốc, khả năng, làm chủ, cốt yếu... Bala là lực, là sức mạnh. Vậy ngũ căn là 5 trạng thái tâm căn bản, 5 yếu tố tâm lý căn bản có khả năng kiểm soát tâm, làm chủ tâm.
(Xem: 7654)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội.
(Xem: 14629)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 9318)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu.
(Xem: 15534)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 15179)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16668)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 13510)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 15341)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 7873)
Tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành ra nước trà.
(Xem: 7527)
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễchúng ta đang thực hiện ngày hôm nay, Ngài cũng không vì vấn đề nghi thứcnghi lễ mà khuyến khích dân chúng...
(Xem: 7374)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu.
(Xem: 9044)
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật GiáoChánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương."
(Xem: 14074)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 8042)
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của Phật giáo...
(Xem: 7866)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn...
(Xem: 15840)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10294)
Chúng ta luôn bị bất an, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sinh mạng, quyền lợi, địa vị, vợ con, tiếng tăm, của cải… của mình bị thương tổn hay bị đe dọa.
(Xem: 7720)
Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
(Xem: 7536)
Trung-quán-luận hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để giảng Giáo lý của đức Phật.
(Xem: 12820)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 7873)
Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời.
(Xem: 8130)
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến ngày nay.
(Xem: 14089)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 7306)
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS / WHO) định nghĩa sức khoẻ là một "thể dạng an vui toàn diện, từ thể xác đến tâm thần và cả cuộc sống trong xã hội
(Xem: 9218)
Trong Thiện kiến tì-bà-sa cũng có thuyết này, nhưng vì độ người nữ xuất gia nên tổn chính pháp năm trăm năm.
(Xem: 9682)
“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ.
(Xem: 13133)
Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người.
(Xem: 7613)
Nếu không có ngã, sự liên quan giữa một hành nghiệp và kết quả của nó là điều không thể có, vì nếu tác giả của một hành nghiệp chết, ai sẽ có kết quả?
(Xem: 10161)
Chúng ta lễ lạy để tịnh hóa mọi tình huống trong quá khứ khi ta không kính trọng người khác... Nguyên tác: Lạt Ma Gendyn Rinpoche; Liên Hoa dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant