Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luận Về Nhân Quả Nghiệp Báo

20 Tháng Hai 201509:05(Xem: 14853)
Luận Về Nhân Quả Nghiệp Báo

Luận Về Nhân Quả Nghiệp Báo

Uthitila
Diệu Thanh Đỗ Thị Bình


Luận Về Nhân Quả Nghiệp BáoMặc dù các tôn giáo nhất là Phật giáo đều nhấn mạnh đến vấn đề Nhân Quả - Nghiệp báo, song Luật Nhân quả không phải là của riêng một tôn giáo nào, nó là một luật của tự nhiên (Law of Nature). Đã là luật của tự nhiên thì ai cũng hiểu rằng không có một sức mạnh, hay ý chí nào can thiệp vào để bắt nó phải theo ý muốn của riêng mình cả. Nó sẽ vận hành theo đúng luật của nó, ai không biết hay cố tình không hiểu thì sẽ phải chịu tác động của luật, ví như một cái máy đang chạy mà một người cứ cho tay vào thì sẽ bị máy nghiền đứt, cho dù có kêu van xin xỏ cũng không được.

Trong các bài nói chuyện của mình, Thầy Huyền Diệu trụ trì chùa Việt Nam Phật quốc tựẤn ĐộLâm Tỳ Ni Nepan, thường bảo rằng trong mấy điều cơ bản để bảo đảm cho con người được hạnh phúc, an lạc là phải tin sâu và hành động theo Nhân quả. Một người tin Nhân quả là một người có thể kết bạn được và trong quan hệ làm ăn không bao giờ sợ người ta phản mình.

Trong các mục tiêu giáo dục của Thái Lan, một nước mà đạo Phậtquốc giáo đến hơn 90% dân số theo đạo Phật, có một mục tiêu nhấn mạnh rằng là người được giáo dục (an educated person) học sinh phải hiểu được nhân quả và hành động theo Luật nhân quả.

Trong Kinh Pháp cú (câu 127), Đức Phật đã nói rõ “không nơi nào trên đời này dù trên trời, dưới biển, hay trong hang đá mà người làm điều ác có thể tránh được hậu quả của hành động bất thiện”.

Để hiểu rõ về Nhân quả - Nghiệp báo chúng ta hãy đọc bài “Nghiệp báo và những bài học về Nghiệp báo” sau đây của Hoà Thượng Uthitila (Hòa thượng là người Miến Điện và bài viết về nhân quả nghiệp báo này đã được đưa vào tuyển tập “Những viên ngọc quý của trí tuệ Phật giáo”).

Nghiệp báo và những bài học về nghiệp báo

Nghiệp, tiếng Pàli gọi là Kamma, tiếng Sanskrit gọi là Karma, là những hành động của thân, khẩu, ý. Mọi hành động đều đưa đến các hậu quả hay kết quả nào đó Do vậy chúng ta có thể nói về nghiệp như là quy luật về “Nguyên nhân và kết quả” hay nói vắn tắt “Nhân - Quả”. Ví dụ, ném đá là một hành động. Hòn đá đó đập vào cửa kính và làm nó vỡ ra. Kính bị vỡ là kết quả của hành động ném, song nó chưa kết thúc. Bây giờ cái cửa sổ bị vỡ nó là nguyên nhân của những phiền toái khác. Ai đó sẽ bị mất tiền để đi thay nó và do vậy người ta sẽ không thể để dành tiền hoặc để mua những thứ khác cho một mục đích khác và hậu quả của việc này là cảm giác thất vọng. Điều này có thể khiến người ta cảm thấy khó chịunếu không cẩn thận thì sự khó chịu, bực dọc của người đó có thể lại là nguyên nhân của những việc làm sai trái nào đó... Không có sự kết thúc cho kết quả của hành động, do vậy chúng ta phải hết sức cẩn thận về những hành động của chúng ta để có được những kết quả tốt.

Mọi thứ đến với chúng ta đều là đúng cả, khi điều gì đó dễ chịu đến với chúng ta và làm chúng ta hạnh phúc chúng ta có thể chắc chắn rằng nghiệp của chúng ta đã tới hay đã báo để chỉ cho ta thấy rằng những điều chúng ta đã làm là đúng. Khi một điều khó chịu nào đó đến với chúng ta và làm chúng ta đau lòng hay bất hạnh, nghiệp của chúng ta đã tới để chỉ cho ta thấy lỗi lầm của chúng ta. Chúng ta không bao giờ được quên rằng, nghiệp báo luôn là công bằng. Nó không yêu cũng không ghét, không thưởng cũng không phạt. Nó không bao giờ cáu giận cũng không vui mừng. Nó chỉ đơn giản là Luật Nhân - Quả.

Nghiệp báo không biết gì về chúng ta. Liệu lửa có biết gì về chúng ta không khi nó thiêu cháy chúng ta? Không, đó là bản chất của lửa - đốt cháy và mang lại nhiệt. Nếu chúng ta sử dụng nó một cách đúng đắn, nó sẽ mang lại ánh sáng, nấu chín thức ăn cho chúng ta, hay đốt cháy những gì chúng ta muốn huỷ bỏ. Song nếu sử dụng sai thì nó sẽ đốt cháy chúng tatài sản của chúng ta.

Chúng ta càng hiểu về Luật Nghiệp báo, chúng ta càng thấy rằng chúng ta phải rất cẩn thận về những hành động, lời nóiý nghĩ của mình, và chúng ta phải có trách nhiệm thế nào đối với những người xung quanh mình. Sống dưới ánh sáng của sự hiểu biết này, chúng ta học được một số bài học về học thuyết về Nghiệp báo.

1. Sự kiên nhẫn: Không có một sự tổn hại nào có thể đến với chúng ta, nếu chúng ta hành động theo luật, chính nó sẽ ban phúc cho chúng ta vào đúng lúc, chúng ta sẽ học được bài học lớn về lòng kiên nhẫn và sẽ không nôn nóng, kích động bởi chính nó làm trở ngại cho sự tiến bộ.

Trong đau khổ chúng ta biết rằng chúng ta đang phải trả một món nợ, và nếu khôn ngoan sáng suốt chúng ta sẽ biết không tạo thêm đau khổ nữa. Trong vui sướng, chúng ta biết được rằng chúng ta đang được hưởng kết quả của một hành động tốt và nếu sáng suốt chúng ta biết rằng chúng ta còn phải cố gắng để tốt hơn nữa. Sự kiên nhẫn mang lại an lạc, thành công, hạnh phúcan ổn.

2. Sự tin tưởng: Chúng ta thực sự an tâm khi chúng ta thực sự hiểu biết về Luật Nhân quả và chẳng có gì phải sợ hãi trên hoàn cầu rộng lớn này ngoại trừ những hành động sai trái của chúng ta. Luật này đã làm cho con người biết đứng trên đôi chân của mình và khơi dậy lòng tự tin. Sự tin tưởng đã làm cho chúng ta thêm an lạchạnh phúc, nó làm chúng ta thoải máican đảm, bất cứ nơi nào chúng ta đi, Luật Nhân - Quả Nghiệp báo là người Bảo trợ của chúng ta.

3. Sự tực lực cánh sinh: Quá khứ đã tạo ra con người chúng ta trong hiện tại, nên cái mà chúng ta làm bây giờ sẽ quyết định số phận của chúng ta trong tương lai. Cần phải có sự nỗ lực tự thân, và loại bỏ cái khuynh hướng cầu viện đến sự giúp đỡ từ bên ngoài mà thực ra chẳng có tác dụng nào hết. “Tịnh và bất tịnh là do bản thân mình, không ai có thể làm thanh tịnh người”. Đức Phật đã nói như vậy.

4. Sự kiềm chế: Lẽ tự nhiên là nếu chúng ta nhận thấy rằng những điều xấu chúng ta làm sẽ chống lại chúng ta, thì chúng ta sẽ phải rất cẩn thận. Sự hiểu biết về Nghiệp báo sẽ ngăn cản, không cho chúng ta làm những điều sai trái cho lợi ích của người khác cũng như của bản thân.

5. Sức mạnh: Nếu chúng ta biến học thuyết về Nghiệp báo thành một phần của đời sống thì chúng ta càng có thêm sức mạnh không những chỉ để hướng đạo cho tương lai của chính mình mà còn để giúp đồng bào của chúng ta hành đạo một cách hữu hiệu hơn. Thực hành nghiệp tốt, chúng ta vượt qua được điều xấu không có gì ngăn cản chúng ta đạt được mục tiêu của chúng taNiết bàn.

(Bản dịch từ Tiếng Anh “What Kamma is” sang Tiếng Việt của Đỗ Thị Bình).

Bàn luận: Như vậy, hiểu rõ và tin sâu vào nhân quả chúng ta phải rất cẩn thận và phải thấy sợ vì hành động không chỉ của thân (việc chúng ta làm) mà cả khẩu (lời chúng ta nói) và ý (ý nghĩa trong đầu) đã đưa đến cái hậu quả hay kết quả rồi. Và không có sự kết thúc cho kết quả của hành động cho nên chúng ta mới thấy rằng một việc làm bất cẩn dù lúc ban đầu tưởng như rất nhẹ nhàng mà hậu quả lại có thể vô cùng khốc liệt như phân tích về câu chuyện ném đá vào cửa kính. Vì vậy mới có chuyện xưa rằng có bà mẹ không muốn cho con làm quan vì sợ rằng nếu con không cẩn thận thì một chính sách ban ra hay một việc làm thiếu chín chắn của con sẽ gây hại cho bao người và người con sẽ phải chịu quả báo xấu. Có vô vàn những ví dụ về những câu chuyện nhân quả như vậy. Câu chuyện của một người đầy tội lỗi (Nhân vật trong Phật pháp nhiệm mầu - Đĩa VCD do Chùa Hoàng pháp thực hiện) sau đã biết quay đầu trở về với chân thiện nhờ Phật pháp soi rọi, đã luôn nhắc tới Nhân quả và biết sợ nhân quả để trở thành Phật tử Tịnh Long lương thiện như ngày nay cho chúng ta thấy rõ giá trị của Nhân quả - Nghiệp báo. Và chúng ta càng thấy sự cần thiết của việc giáo dục về Nhân quả - Nghiệp báo cho thanh thiếu niên ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường để đem đến cho các em một tương lai tốt đẹp nhờ biết gieo trồng những nhân tốt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5474)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10541)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6106)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9377)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6430)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5995)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7512)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7335)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5221)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8114)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5940)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9653)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7426)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7455)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6244)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5327)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5876)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5681)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3976)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5723)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4100)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7539)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5733)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21958)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5661)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7111)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5044)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6456)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5832)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5022)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7070)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6061)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5586)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5902)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 6028)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6856)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6448)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6094)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6506)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6202)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6395)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5622)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6919)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4572)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7802)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6054)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7312)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7743)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5511)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5161)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5692)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5546)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5535)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5030)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4292)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6061)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5642)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6302)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8540)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant