Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 4: Cái Chết

24 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 10986)
Chương 4: Cái Chết


CÁI CHẾT

Đức Phật từng dạy: Trong mọi thời điểm để cày cấy,mùa thu là mùa thích hợp nhất,tất cả nhiên liệu dùng để nhen lửa,phân bò tốt nhất; còn trong tất cả các loại giác ngộ,giác ngộ đối với vô thườnggiác ngộ đối với cái chết là sự giác ngộ vô thượng nhất.Cái chết là điều chắc chắn sẽ phải xảy ra,nhưng chừng nào nó sẽ xảy đến thì quả thật khó mà định được.Khi đối diện với mọi sự việc,ta không tài nào biết được việc gì sẽ xảy đến trước-ngày mai hay cái chết.Ta không thể khẳng định rằng già lão sẽ chết trước còn tuổi trẻ sẽ lưu lại sau.Ta có thể trau dồi một tâm thức thực tế nhất là kỳ vọng vào điều toàn bích,nhưng hãy chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất.Nếu tình huống tồi tệ nhất không hề xảy đến thì mọi sự đều tốt,nhưng nếu nó xảy ra thì cũng chẳng làm ta bỡ ngỡ. Cũng nên áp dụng nguyên tắc này vào việc hành trì Phật pháp;hãy chuẩn bị cho những gì dở xấu nhất,vì không ai trong chúng ta biết trước được ngày giờ chết của mình.

Xuyên qua tin tức hàng ngày,ta nghe loan báo về cái chết của một người bạn,của một người nào không quen biết lắm hay của một người bà con nào đó. Đôi khi ta cảm nhận một mất mát; đôi khi ta gần như hớn hở;nhưng ta vẫn còn mang ý tưởng tựa hồ như cái chết sẽ không xảy đến với ta.Ta nghĩ rằng mình được đặc miễn đối với lẽ vô thường,và vì vậy,có thể tạm gác chuyện tu hành,(có thể giúp ta chuẩn bị cho cái chết),và nghĩ rằng ta còn nhiều thời giờ trong tương lai.Khi thời khắc không thể tránh được này xảy đến,ta còn lại một điều duy nhất là nỗi niềm hối tiếc.Ta cần nhập cuộc tu hành ngay tức khắc để được chuẩn bị dù cho cái chết có xảy ra nhanh chóng thế mấy cũng được.

Khi thời khắc tử vong đã điểm,không có tình huống nào có thể cản ngăn.Bất kỳ bạn có loại thể phách nào,chịu đựng được bệnh tật dày vò thế mấy,cái chết vẫn chắc chắn sẽ phải xảy ra.

Nếu ta ngưỡng vọng về cuộc đời của Chư Phật và Chư vị Bồ Tát trong quá khứ; tất cả giờ đây chỉ còn là ký ức.Các vị đại sư Ấn Độ như Ngài Long Thọ và ngài Vô Trước đã từng đóng góp rất lớn cho Phật phápnỗ lực cho sự lợi lạc của biết bao hữu tình chúng sanh nhưng tất cả những gì còn lưu lại từ các vị ấy bây giờ cũng chỉ tuyền là tên tuổi không thôi. Điều này cũng áp dụng luôn cho các vị đại thống trị và các vị lãnh tụ chính trị.Sự tích cuộc đời của các vị ấy,vì quá chói sáng,nên họ dường như vẫn còn sống động.Khi sang Ấn Độ hành hương ,ta sẽ phát hiện ra được những nơi như đại học Nalanda mà các đại sư đương thời như Bồ Tát Long Thọ, bồ Tát Vô Trước đã từng học tập và giảng dạy tại đó.Nalanda hiện giờ chỉ còn tường xiêu vách ngã.Khi xem dấu tích do các nhân vật vĩ đại trong lịch sử lưu lại, sự hoang tàn đổ nát sẽ chỉ bày cho ta bản tánh huyễn ảo vô thường.Như một bài cách ngôn Phật giáo xa xưa đã nói: “Dù chúng ta có chui vào lòng đất,lặng sâu xuống đáy biển hay bay lên không trung;ta vĩnh viễn không sao tránh khỏi cái chết”.Thân bằng quyến thuộc của ta sớm muộn gì rồi cũng cách chia như đám lá tung bay rời rạc trong gió.Giữa một đôi thánh kế tiếp,vài người trong chúng ta sẽ bắt đầu vĩnh viễn ra đi và những người khác sẽ phải lìa đời trong vòng một vài năm nữa.Trong khoảng tám chín chục năm sau;tất cả chúng ta bao gồm luôn cả Đạt Lai Lạt Ma đều phải chết.Đến lúc đó, chỉ có sự liễu ngộ tinh thần của ta mới giúp ích cho ta mà thôi.

Không có bất kỳ người nào có thể càng ngày càng lìa xa cõi chết kể từ khi sinh ra đời cả.Ngược lại,càng ngày càng cận kề cái chết giống như thú vật bị dẫn độ đến lò sát sinh vậy.Như người chăn bò dùng roi vọt để dẫn độ những con bò cái bò đực của họ quay ngược về chuồng;chúng ta cũng vậy,dày xéo bởi khổ đau của sanh lão bệnh tử,càng ngày càng tiến gần hơn đến hồi chung kết của cuộc đời.Vạn pháp trên thế gian đều bị chi phối bởi lẽ vô thường; để rồi tận cùng sẽ rời rạc phân ly.Như ngài Đạt Lai Lạt Ma đời thứ bảy thường dạy: “Những người trẻ tuổi trông rất mạnh và rất khỏe nhưng lại chết sớm mới thật sự là vị thầy dạy chúng ta về đạo lý vô thường”.Trong tất cả những người ta quen biết,không ai là người sống đến trăm tuổi.Cái chết không thể xoay chuyển được dù bằng niệm tụng chú ngữ hay là được bảo hộ bởi một vị lãnh tụ chính trị quyền uy.

Trải qua nhiều năm trong cuộc đời,tôi đã từng gặp gỡ rất nhiều người;nhưng hiện giờ tất cả chỉ còn là đối tượng trong ký ức.Hiện tại thì tôi lại quen biết một vài người mới;cứ như đang xem một vở tuồng;sau khi vai trò diễn xuất chấm dứt;người ta sẽ thay đổi xiêm y để tái xuất hiện.

Nếu hoang phí cả cuộc đời ngắn ngủi của ta theo chiều hướng tham dụcsân hận;nếu cũng vì cuộc đời ngắn ngủi như vậy mà gia tăng phiền não thì sự tổn hại quả rất dài lâu bởi vì chính nó đã tiêu hủy tiền đồhy vọng cứu cánh an lạc của chúng ta.

Có đôi khi ta không thành công trong một vài việc thế tục thường tình thì cũng không có gì đáng quan ngại cho lắm.Nhưng nếu để lãng phí cả cơ hội quí báu của kiếp nhân sinh này,thì chúng ta sẽ trường kỳ thất vọng.Tương lai đang nằm ngay trong lòng bàn tay của chúng ta-phải chăng ta muốn trải qua bao điều trầm luân thống khổ khi bị đạo lạc xuống cảnh giới phi nhân-hoặc giả ta muốn được chuyển sinh lên cảnh giới cao tốt hơn-hoặc ta muốn đạt đến cảnh giới thực chứng giác ngộ.Ngài Shantideva dạy rằng;hiện đời này,ta có cơ hội,có trách nhiệm,có năng lực để định đoạtquyết định cho cả cuộc đời vị lai của ta.Ta nên đào luyện tâm trí để cuộc sống khỏi bị luống uổng-dù là một thánh hay một ngày-và hãy chuẩn bị cho thời điểm của tử vong.

Nếu có thể vun trồng sự hiểu biết như vậy thúc đẩy tiến trình tu hành tâm linh sẽ xuất phát từ nội tại-đó là một nhân tố, động cơ kiên định nhất.Ngài Geshe Sha-ra-wa[1] (1070-1141) đã dạy: “Vị thầy cao tốt nhất của Ngài là pháp quán tu về lẽ vô thường”.

Khi trực diện với tử thần, bậc tu hành đạo hạnh nhất sẽ cảm thấy vui sướng;người tu hành trung đẳng đã chuẩn bị vẹn toàn;và ngay cả người tu hành kém nhất cũng sẽ không còn hối tiếc gì nữa.Vào ngày cuối cùng của mạng sống chúng ta, điều tối quan trọng là không nên có dù một mảy may thương đau hối tiếc.Nếu không thì những kinh nghiệm tiêu cực vào giờ chết ảnh hưởng đến sự luân hồi tái sanh của ta.Phương pháp tối thượng để làm cho mạng sống tròn đầy ý nghĩa là hãy đi trên lộ trình của từ bi.

Nếu bạn suy gẫm về cái chết và vô thường, bạn sẽ khởi sự làm cho đời mình đượm nhiều ý nghĩa.Có thể bạn sẽ nghĩ rằng: sớm muộn gì cũng phải ra đi,không có lý do để nhớ nghĩ đến cái chết vào giờ phút này, bởi vì nó chỉ thuần túy khiến bạn bi quan và âu lo.Tuy nhiên,giác ngộ vế cái chết và lý vô thường có thể gây nhiều lợi ích to lớn.Nếu nội tâm bị kềm hãm bởi cảm giác rằng chúng ta được bất tử thì chúng ta chẳng bao giờ thực tâm dấn bước trên con đường chánh pháp để tu hành.Niềm tin sẽ được bất tử chính là khối đá to lớn ngăn trở quá trình tu đạo của bạn;bạn không nhớ nghĩ đến Phật pháp;bạn không tuân phục dù có thể bạn cũng nhớ đến Phật pháp;hoặc bạn chẳng triệt để mà chỉ tuân phục Phật pháp đến một trình độ hạn định nào đó.Nếu không trầm tư mặc tưởng về cái chết thì không làm sao cố gắng thật tu cho được.Bị khống chế bởi lười biếng dãi đãi, bạn sẽ đánh mất sự tinh tấn nỗ lực và xông pha trên đường tu để rồi mệt mỏi chán nản sẽ trùm phủ lên bạn.Bạn sẽ sanh ra chấp trước sâu đậm đối với danh vị; đối với lợi dưỡng vật chất và đối với vinh hoa phú quí.Khi suy nghĩ quá sâu xa về cuộc sống hiện tại,ta sẽ có khuynh hướng phục vụ cho người ta yêu mến-cho thân quyến,cho bằng hữu của ta-thế là ta phải nỗ lực để mang niềm vui đến cho họ.Khi có người muốn ám hại họ, ta tức thì dán một nhãn hiệu vào nhóm người này như chính họ là thù địch của ta.Phiền não như tham dụcsân hận sẽ từ đó dâng trào như lũ lụt của giòng sông vào hạ.Những phiền não này sẽ tự nhiên xui khiến ta sa đắm vào đủ mọi hành vi xấu ác tiêu cựchậu quả đưa dẫn đến tương lai bị chuyển sinh vào cảnh giới thấp hơn.

Do công đức tích lũy một phần nhỏ phước thiện;ta đã có được một báu thân.Phần phước báo nào còn thừa lại sẽ hiển lộ ra cuộc sống qua từng nấc thang phú quí tương ứng.Vì thế,chút ít vốn liếng dành dụm đã tiêu pha rồi;nếu không góp nhặt thêm gì mới lạ nữa thì cũng hệt như tiêu dùng hết trương mục tiết kiệm mà chẳng chịu bỏ thêm tiền mới vào.Nếu chỉ tiêu tổn công đức phước báo đã tích tập, sớm muộn gì ta cũng sẽ lao đầu vào chốn thập phần khổ đau trong đời sống hậu lai.

Đối với tử vong,nếu không có một nhận xét thích đáng;lúc chết sẽ bị sợ hãi và nuối tiếc ràng buộc.Loại cảm giác này sẽ đưa dẫn ta đến cảnh giới thấp hơn.Nhiều người rất tránh kỵ nói đến chết chóc.Họ tránh né suy nghĩ đến những điều xấu xa tồi tệ nhất để rồi đến khi mọi chuyện trở thành hiện thực thì họ sẽ hoàn toàn kinh hãi và không còn kịp trở tay nữa.

Tu hành theo lời Phật dạy thường cảnh tỉnh chúng ta không nên ngoảnh mặt thờ ơ với mọi bất hạnh.Trái lại phải tri nhận và trực diện với bất hạnh, để khi ta thực nghiệm và thực chứng thương đau thì chưa hẳn là không có cách nhẫn chịu.Chỉ đơn thuần tránh né vấn đề thì không giúp giải quyết được gì mà thực tế chỉ làm cho nó tệ hại hơn thôi.

Có một số người lưu ý rằng là tu Phật dường như chỉ đặc biệt nhấn mạnh đến nỗi khổ đau và sự bi quan yếm thế.Tôi cho rằng điều này hoàn toan sai lầm.Trên thực tế, hành trì Phật Phápnỗ lực đạt được một sự bình yên vĩnh cửu-đó là điều không thể tưởng tượng nổi đối với một tâm hồn bình dị-chỉ diệt trừ một lầnvĩnh viễn thoát khỏi khổ đau.Phật giáo đồ không mãn nguyện với sự giàu sang phú quý đời này không thôi hoặc kỳ vọng vào vinh hoa sung mãn của những kiếp sống vị lai,mà thay vào đó là mưu tìm sự an lạc hạnh phúc tối thượng.

Nhận xét căn bản của Phật giáo là: Bởi vì khổ đau là một thực thể chân thậtnội tâm chỉ cố tránh né cho nên không thể nào giải quyết được vấn đề.Việc ta cần làm là hãy trực diện,mặc đối mặt,phân tích,kiểm soát,xác định những căn nguyên và tìm cách tốt nhất để giúp bạn đối phó với chính những khổ đau.Với những ai thường trốn tránh nhớ nghĩ đến đau thương bất hạnh,thì thực tế khi bị nó tấn công đã kích;họ sẽ không kịp chuẩn bị và sẽ bị hành hạ quằn quại hơn cả những người đã từng quen thuộc với khổ đau,với nguồn gốc và với cách thức khổ đau trổi dậy.Một người tu theo Phật pháp, hàng ngày đều nghĩ đến cái chết;tư duy về niềm đau nỗi khổ của nhân loại như: về sinh khổ,về lão khổ,về bịnh khổ và về tử khổ.Mỗi một ngày,người tu Mật tông đều quán tưởng phải trải qua cả một quá trình chết chóc.Giống như trong nội tâm mỗi ngày đều sẽ chết một lần.Do thuộc làu và làm quen đối với cái chết nên lúc thật sự đối mặt tử thần,thì họ đã chuẩn bị khá sẵn sàng.Nếu phải băng ngang một vùng đất đầy nguy hiểm ấy và trước tiên phải biết cách đối phó ra sao.Không suy nghĩ trước khi hữu sự là điên rồ khờ dại đó thưa bạn! Dù ưa thích hay không, bạn đều phải đến đó.Vì thế,tốt hơn là phải được chuẩn bị để khi những nguy khốn ập đến, bạn sẽ biết cách phản ứng.

Nếu sở hữu được một sự tỉnh thức trọn vẹn đối với tử vong thì bạn cảm thấy chắc chắn rằng mình sẽ sắp sửa ra đi.Sau đó, nếu phát giác là mình có thể chết trong nay mai;do nhờ quá trình tu tập tâm linh, bạn sẽ nỗ lực tự cách ly ra khỏi những chấp trước vật chất bằng cách loại bỏ mọi sở hữu của mình và xem thế tục vinh hoa phú quí như khôngthực chấtvô nghĩa.Bạn sẽ tận lực tu hành. Điều thắng lợi khi biết tỉnh thức đối với cái chết sẽ khiến cho đời sống ngập tràn ý vị.Khi kề cận với tử thần, bạn sẽ cảm thấy hoan hỷ và lìa đời không chút hối tiếc.

Thông thường,khi biết nghĩ cái chết là điều chắc chắn phải đến và nó không xác định là sẽ đến ở vào thời điểm nào; bạn sẽ tận sức vì tương lai mà tự chuẩn bị.Bạn sẽ thấm thía rằng vinh hoa phú quí và mọi sinh hoạt phàm tục đều không có thực chất và không còn quan trọng gì cả.Vì thế, làm việc cho sự ích lợi bền lâu của chính mình và của tha nhân dường như trọng yếu hơn nhiều,và cuộc đời bạn sẽ được đưa dẫn theo tầm hiểu biết như vậy.

Như ngài Milarepa[2] từng dạy: “Sớm muộn gì mọi thứ cưu mang cũng phải bỏ lại sau lưng, sao không bỏ ngay đi?” Quả chưa chắc mấy ai sống trên trăm tuổi dù với tất cả toàn lực bao gồm luôn việc uống thuốc chữa trị và tu pháp trường thọ.Tuy cũng có đôi ba trường hợp ngoại lệ;nhưng qua sáu, bảy mươi năm sau,phần lớn những người đang đọc sách này đều đã qua đời.Sau một trăm năm,người đời sẽ thuần túy nhớ nghĩ về thời đại chúng ta như một giai đọan của lịch sử thế thôi.

Khi tử vong kề cận,chỉ còn có tâm đại bi và bao nhiêu hiểu biết về bản chất của hiện thực mà người ta đã đạt được cho đến giờ phút ấy là điều trợ ích duy nhất mà thôi.

Theo như quan điểm này, sự kiểm chứng để nghiệm xem phải chăng đằng sau cõi chết còn có những đời sống khác hay không là điều tối ư trọng đại Đời sống trong quá khứvị lai hiện diện vì những lý do như sau: Một vài mô thức đặc định tư duy nào đó từ năm ngoái,từ năm trước nữa,và thậm chí từ thuở ấu thời giờ đây đều có thể hồi tưởng lại được. Điều này rõ ràng cho thấy có một giác thức đã hiện hữu trước cả giác thức hiện tại.Cái sát na đầu tiên của sự ý thức hiểu biết trong cuộc đời không phải không có nguyên nhân mà được tạo thành; cũng không phải được thoát sinh từ vật thể gì trường cửu hay vô hồn.Cái khoảnh khắc của tâm linh là điều gì trong trắngminh giác.Vì thế,trước nó cần phải có một vật thể nào trong trắngminh giác lắm; đó chính là cái tiền khoảnh khắc tâm linh vậy.Quả không thể hợp lý nếu giờ khắc đầu tiên của tâm thức trong hiện đời có thể đến từ một sự vật nào khác hơn đời sống trước đó.

Cho dù thân thể hữu tình có thể đóng vai trò như duyên cớ phụ thuộc của những biến hóa tinh vi trong tâm thức; nhưng nó không thể là nguyên nhân đầu tiên được.Vật chất không bao giờ chuyển thành tâm linh;và tâm linh cũng chẳng chuyển thành vật chất.Vì thế,tâm linh do gốc rễ từ tâm linh.Tâm linh hiện đời này đến từ tâm linh của đời trước và phục vụ như nguyên nhân của kiếp sống tâm linh đời sau.Khi bạn hồi tưởng về cái chết và không ngừng cảnh giác thì cuộc sống của bạn trở nên ngập tràn ý nghĩa.

Thấu triệt được những bất lợi to lớn của mọi bám víu tự nhiên của ta đối với cái mà ta nghĩ là thường hằng bất biến; ta phải nghịch chống lại nó và thường xuyên cảnh giác về cái chết để ta được khích lệ trong việc hạ thủ công phu tu hành nghiêm túc hơn.Ngài Tsong-Kha-pa dạy rằng: “Tầm quan trọng của sự cảnh tỉnh đối với cái chết không chỉ hạn định ở giai đoạn đầu tiên.Nó trọng yếu và xuyên suốt qua mọi giai đoạn của Bồ Đề Đạo (đạo giác ngộ); nó trọng yếu từ giai đoạn đầu,qua giai đoạn giữa va kể luôn cả giai đoạn cuối cùng”.

Sự tỉnh thức đối với cái chết mà ta bắt buộc trau dồi không phải là nỗi niềm lo sợ thường tình, bất lực vì bị chia cách giữa những người thân yêu và vật sở hữu của chúng ta.Thay vào đó,ta hãy tập lo sợ là ngày lìa đời mà ta vẫn chưa thể tận diệt được mọi nguyên nhân gây ra cảnh chuyển sinh vào thế giới hạ đẳng.Và,ta sẽ lìa đời khi chưa tập đủ điều kiện nhân duyên cần thiết cho một sư luân hồi ưa thích đúng như ước nguyện.Nếu chưa hoàn thành hai mục tiêu trên thì vào giờ phút lâm chung,ta sẽ bị kềm hãm bởi sự hoảng sợ ảo nãoăn năn hối hận.Trải cả cuộc đời nuông chìu theo những hành vi tiêu cực bất thiệnsân hậndục vọng xui khiến; sự tổn hại tạo ra không chỉ tạm thời mà rất dài lâu bởi vì ta đã tích lũy và sưu tập rất nhiều điều kiện nhân duyên làm bại hoại những kiếp vị lai.Lo sợ như vậy, sẽ càng khơi sáng trong ta cách làm cho sinh hoạt bình nhật đượm nhiều ý nghĩa. Đạt được sự tỉnh thức đối với cái chết như vậy rồi; ta xem vinh hoa phú quí,công việc thế tục không còn quan trọng và sẽ làm việc cho một tương lai tươi sáng hơn. Đó chính là mục đích quán tưởng về cái chết.Nếu bây giờ sợ sệt chết chóc,ta sẽ tìm kế vượt qua sự sợ hãi; nhưng lại ôm hối tiếc vào giờ phút lâm chung.Tuy nhiên,nếu tìm cách tránh né sự sợ hãi về cái chết này thì ta lại bị vây hãm bởi trường hận vào giờ phút ấy.Ngài Tsong-Kha-Pa dạy rằng: “Khi sự trầm tư mặc tưởng của ta đối với vô thường trở nên vững vàng ổn định;mọi sự mọi việc gặp gỡ đều đang dạy ta về đạo lý vô thường”. Ngài nói quá trình tiến dần về cõi chết bắt đầu ngay từ trong thai mẹ và ngay khi còn đang sống.Cuộc đời ta đã không ngớt bị dày xéo bởi bệnh hoạn và già lão.Ngay khi đang sống khỏe mạnh,ta chớ nên để bị lôi cuốn theo ý nghĩ rằng là ta sẽ chẳng chết.Ta không nên quá vui mừng mà quên hết mọi sự ngay khi đang được yên lành; tốt hơn cả,là hãy chuẩn bị cho phần số tương lai. Ví như; kẻ đang rơi từ hố cao sẽ chẳng hân hoan gì trước khi y chạm đất.Cần tư duy rằng: Ngay khi còn đang sống,ta cũng có rất ít thì giờ để tu hành.Dù rằng ta còn có thể sống lâu được,có thể cả trăm tuổi,ta cũng tuyệt đối không bao giờ bị khuất phục bởi cảm nghĩ rằng là hãy còn nhiều thì giờ để tu hành sau này.Chớ nên bị ảnh hưởng bởi sự trì hoãn vì đó là một hình thức lười biếng.Phân nửa đời người đã tiêu pha vào việc ngủ nghỉ và thời gian còn lại đa số bị phân tâm vì tạp sự thế gian.Khi tuổi già chồng chất,thể tạng và trí năng giảm sút thì dù muốn tu cũng đã quá trễ vì ta không còn sức lực nữa.Giống như kinh điển đã dạy; trải nửa đời người trong giấc ngủ,mười năm ta làm một đứa trẻ, hai mươi năm cho sự già nua.Khoảng thời gian chính giữa thì bị dày xéo bởi âu lo,phiền muộn,khổ đau,và buồn chán.Vì thế, dường như không còn thời gian nào để tu hành Phật pháp cả! Nếu sống thọ được sáu mươi năm, thử nghĩ phí cả thời gian như đứa trẻ nít ,thời gian ngủ nghỉ luôn cả thời gian tuổi tác già nua; ta sẽ phát giác rằng; chỉ còn khoảng năm năm để có thể chuyên tâm cống hiến cho tiến trình tu hành.Thay vì sống cuộc đời bình dị như hiện nay,nếu ta không cẩn thận nỗ lực hầu gánh vác con đường tu hành thì điều chắc chắn là ta đã sống một cuộc đời vô công rỗi nghề và không có mục đích gì cả.Ngài Gung-Thang Rinpoche[3] từng nói nửa đùa nửa thật: “Tôi phí thời gian hai mươi năm không hề nghĩ đến việc hành trì Phật pháp rồi tiêu thêm hai mươi năm nữa,nghĩ rằng sau này có thể tôi sẽ tu,và rồi thêm mười năm khác nữa nghĩ về cách tại sao tôi bỏ lỡ cơ duyên tu hành của mình.”

Lúc tôi còn trẻ chưa có chuyện gì xảy ra.Khoảng mười bốn mười lăm tuổi,tôi bắt đầu thật sự quan tâm đến Phật pháp.Rồi người Trung Hoa đến và tôi đã tiêu phí nhiều năm với đủ loại xoáy lốc chính trị.Tôi đã đi Trung Quốc và viếng thăm Ấn Độ vào năm 1956.Sau đó,trở về lại Tây Tạng,và lại lần nữa phung phí một số thời gian cho nhiều sự vụ chính trị.Điều rõ nhất mà tôi có thể còn nhớ nổi là sự tham gia khảo thí cho chức vụ Geshe[4] (học vị cao nhất trong đại học tăng viện Tây Tạng); sau đó tôi buộc lòng phải rời bỏ quê hương. Đến nay tôi đã sống lưu vong hơn ba mươi mấy năm rồi;tuy tôi vẫn không ngừng nghiên cứu học tập và tu hành nhưng phần lớn cuộc đời tôi trôi qua không chút ý nghĩa cũng chẳng ích lợi gì.Tôi rất lấy làm hối tiếc vì đã bỏ lỡ công việc tu hành.Nếu nghĩ về pháp tu “Vô Thượng Du Già Mật pháp”[5] thì tôi không còn khả năng hành trì một vài phép tu của pháp môn này vị sự cấu tạo cơ thể của tôi đã bắt đầu suy thoái với tuổi tác.Thời cơ tu học Phật pháp chẳng phải tự nhiên mà đến, ngược lại,nó cần phải được sắp xếp riêng rẽ cẩn thận.

Nếu buộc phải chấp nhận dấn thân trên một cuộc du hành dài lâu; đến một thời điểm nào đó, điều cần thiết là phải lo toan chuẩn bị.Như tôi thường ưa nói,ta nên đầu tư năm mươi phần trăm thì giờtinh lực đế quan tâm đến cuộc đời vị lai và năm mươi phần trăm đến mọi vấn nạn trong đời hiện tại.

Duyên chết chóc thì nhiều mà duyên sống sót thì rất ít.Hơn thế nữa,thực phẩm và thuốc men mà ta thường xem như những thứ để duy trì mạng sống có thể trở nên nguyên nhân gây chết chóc.Nhiều loại bệnh hiện nay được xem như phát nguốn từ cách ăn uống của ta.Sản phẩm hóa học được dùng để trồng trọt nông sản,nuôi súc vật đã góp phần vào việc tổn hại sức khỏe và gây ra sự mất quân bình trong cơ thể.Thân thể con người quá nhạy cảm,yếu ớt;vì vậy nếu quá mập, bạn sẽ có đủ thứ vấn đề:bạn không thể đi đứng vững vàng,cao áp huyết và chính thân thể bạn trở thành một gánh nặng.Ngược lại,nếu bạn quá gầy,thể lực và sức chịu đựng rất yếu sẽ đưa dẫn đến đủ thứ phiền phức khác.Khi còn niên thiếu, bạn lo sợ không được bao gồm trong đám người lớn và khi quá già thì bạn cảm thấy như bị tách biệt chia xa khỏi đoàn thể xã hội. Đây là bản chất sinh tồn của chúng ta.Nếu sự thương tổn là một vật thể đau đớn ngoại tại nào đó thì có thể bạn còn có cách tránh né được; bạn có thể chui trốn dưới đất hoặc lặn sâu vào lòng biển cả.Nhưng nếu sự thương tổn xuất phát từ nội tại thì bạn chẳng còn có thể làm gì được. Đang khi không bệnh khổ cũng chẳng gặp khó khăn,lại còn có một cơ thể tráng kiện; ta phải lợi dụng cơ hội và nắm lấy tinh hoa.Nắm bắt tinh hoa của đời sốngnỗ lực đạt đến cảnh giới toàn nhiên không bệnh khổ,không chết chóc,không suy nhược và không sợ hãi-đó chính là cảnh giới giải thoátNhất Thiết Trí.

Người giàu có nhất thế gian,lúc chết dù một món vật sở hữu đơn giản cũng không thể mang theo được.Ngài Tsong-Kha-Pa dạy rằng; nếu phải bỏ lại sau lưng cái thân thể mà ta đã cưu mang quá thân thiết, được ghi dấu như là của riêng mình, hơn nữa nó đã đeo đuổi ta từ thuở sơ sinh như người bạn đồng hành kỳ cựu nhất.Thế thì không còn gì thắc mắc để tức khắc buông bỏ mọi sở hữu vật chất. Đa số nhiều người hao phí biết bao nhiêu thì giờsức lực,chỉ thuần túy cố công đạt được vinh hoa phú quíhạnh phúc trong hiện đời. Đến lúc chết đi,tất cả mọi sinh hoạt thế tục như đùm bọc lo lắng cho thân nhân bằng hữu và tranh đua với đối thủ của ta đều ngưng đọng dang dở.Dù có đủ thức phẩm để nuôi mạng cả trăm năm thì cũng phải chết trong đói khát và dù có quần áo đủ bận cả trăm năm thì cũng vĩnh viễn lìa đời trong trần truồng.Khi tử thần ập đến,không có gì sai biệt trong cái chết giữa một vị vua để lại cả một vương quốc vĩ đại và người hành khất chỉ để lại vỏn vẹn một chiếc gậy con.

Bạn bên cố gắng hình dung cảnh tượng khi bạn lâm bệnh.Hãy tưởng tượng bạn lâm trọng bệnh,toàn thể sức lực tiêu tán; bạn cảm thấy gân mỏi, hơi tàn, sức kiệt,ngay đến thuốc men cũng chẳng giúp ích được gì.Một khi tử thần kề cận, bác sĩ sẽ có hai cách nói: Với bệnh nhân, bác sĩ sẽ nói: “Chớ có âu lo, bạn sẽ bình phục,tuyệt đối không nên bận tâm,cần phải nghỉ ngơi thư thái”. Với họ hàng gia quyến, bác sĩ sẽ nói: “Bệnh tình rất nghiêm trọng,nên thu xếp hậu sự đi”. Đến lúc ấy bạn không còn cơ hội để hoàn thành công việc dang dở hoặc hoàn tất công việc học hành.Khi nằm xuống rồi,thân thể suy nhược đến độ tựa hồ như không còn cách chi di động được.Rồi hơi ấm trong thân thể bạn dần dần tan biến, bạn cảm thấy xác thân trở nên cứng đơ như một khúc cây ngã nằm trên giường.Bạn sẽ thật sự bắt đầu trông thấy thân xác của mình.Những lời nói sau cùng của bạn tựa hồ không thể nghe đượcmọi người vây quanh cố sức lắng hiểu thử xem bạn muốn trối lại điều gì.Thực phẩm lần chót ăn vào không còn là những mỹ vị mà là một đống thuốc hỗn hợp mà bạn không còn đủ sức nuốt vào.Bạn bị bắt buộc phải bỏ lại những bằng hữu thân thương nhất; có thể đến vô số kiếp sau bạn mới gặp trở lại họ được.Phương thức hô hấp sẽ thay đổi và trở nên hỗn hợp ồn ào.Dần dần biến thánh không liên tục, hơi hít vào thở ra càng ngày càng gấp rút hơn.Sau cùng trút ra một hơi dài chót,và đấy là chung cuộc của sự hô hấp. Điều này đánh dấu cái chết theo thói hiểu biết thông thường.Từ đó về sau,cái danh xưng đã từng mang nhiều an vui hạnh phúc đến với bằng hữu thân nhân sẽ được gắn thêm mấy chữ ở đầu câu: “người quá cố”.

Vào giờ phút lâm chung,nội tâm có được trạng thái đạo đức thiện niệm là yếu tố then chốt quyết định. Đó là cơ hội sau cùng còn lại của chúng ta và là cơ hội không thể bỏ lở.Dù ta đã có thể từng sống một cuộc đời tàn ác tiêu cực nhưng khi sắp chết,ta vẫn nên cố gắng hết sức để bồi dưỡng tâm niệm lương thiện.Nếu ta có thể phát khởi lòng từ bi mãnh liệt và kiên định vào giờ phút này, hy vọng ta sẽ được chuyển sinh vào cảnh giới mà ta ưa thích.Thông thường mà nói, tình thân mật đóng một vai trò vô cùng trọng yếu.Khi một người bệnh sắp chết,quả thật bất hạnh nếu mọi người khác để cho người này khởi niệm tham và hận. Ít ra người sắp chết cũng được cho ngắm nhìn hình tượng các vị Phật và các vị Bồ Tát.Vì có thể chiêm ngưỡng Phật và Bồ Tát,người đó có thể phát sanh tín tâm mãnh liệt và ra đi với một tâm cảnh quang minh tốt đẹp.Nếu không thể làm được như vậy, điều tối quan trọng là những người hậu cận và thân quyến không được làm cho người chết cảm thấy buồn phiền.Vào giờ phút ấy, nếu bị xúc động và khởi lên ý niệm tham lam hay tình tự sân hận mạnh mẽ,tất cả đều có thể gây cho người chết rơi vào trạng thái đau khổ cùng cực và rất có thể bị luân hồi vào cảnh giới thấp hơn.

Khi tử thần kề cận,một vài dấu hiệu báo trước cuộc đời vị lai của người đó có thể xuất hiện.Những người có tâm niệm lương thiện sẽ cảm thấy từ đen tối đi tới sáng sủa hoặc tiến đến một khoảnh đất trống rộng rãi.Họ sẽ cảm thấy an lạc,trông thấy cảnh tượng của nhiều sự vật tráng lệ và sẽ không còn cảm thọ đau đớn cùng tột khi chết nữa.

Nếu lúc chết,người ta dấy lên tâm niệm tham và sân một cách dữ dội,thì họ sẽ thấy đủ loại ảo giác và lòng trĩu nặng bồn chồn lơ sợ.Có người cảm thấy đang vào nơi đen tối;có người lại cảm thấy bị lửa đốt.Tôi đã từng gặp những người bị bệnh nặng kể cho tôi nghe rằng khi họ lâm trọng bệnh, họ đã có ảo giác bị lửa thiêu đốt. Đây là điềm chỉ định vận mệnh tương lai của họ.Do kết quả của những dấu hiệu như vậy,người chết sẽ cảm thấy nội tâm vô cùng hỗn loạn;sẽ gào thét và than van;cảm thấy toàn thân như bị ghì kéo xuống dưới.Họ sẽ cảm thấy đau đớn dữ dội khi chết.Tất cả những điều này đều tuyệt đối phát xuất từ tự tâm chấp ngã.Người sắp chết biết rằng “con người”mà họ đã từng quá yêu quí đang đi vào cõi chết.

Những người đã từng tiêu pha phần lớn cuộc đời của họ vào những hành vi bất thiện lúc chết,theo truyền thuyết,thì quá trình tản thất thể ôn[6] bắt đầu từ phần trên thân thể chuyển dần đến tim.Trong bất cứ trường hợp nào, ý thức cũng đều thực sự tách rời ra từ tim cả.

Sau khi chết con người tiến đến trạng thái trung gian tức là Thân Trung Ấm[7].Thể xác của Thân Trung Ấm có vài đặc thù riêng biệt; mọi quan năng sinh lý đều hoàn thành trọn vẹn,tướng mạo của Thân Trung Ấm sẽ hệt khuôn như tướng mạo của chúng sanh mà nó sắp sửa đầu thai vào.Ví dụ:nếu nó sẽ luân hồi trở lại làm người thì sẽ có tướng mạo giống như con người.Nếu nó sẽ đi đầu thai làm súc sanh thì sẽ có tướng mạo của riêng loài thú đó.Thân Trung Ấm có một nhãn quan mạnh mẽ đến nỗi có thể trông xuyên qua những vật thể và dạo chơi cùng khắp mà không bị cản trở.Thân Trung Ấm chỉ có thể bị nhìn thấy được bởi Thân Trung Ấm cùng loại.Ví dụ: nếu một Thân Trung Ấm nào đã được định đoạt trước để tái sinh làm người thì nó chỉ được nhìn thấy bởi những Thân Trung Ấm đã được định phần để đầu thai làm người.Những Thân Trung Ấm cõi thiên đi đứng,nhìn ngó theo chiều hướng thượng;và những Thân Trung Ấm cõi người đi đứng nhìn ngó theo chiều ngang.Thân Trung Ấm của những người từng chìm đắmhành vi bất thiện, bị định phần sẽ đầu thai vào cảnh giới thấp kém hơn và theo truyền thuyết, sẽ di chuyển theo hướng chúc đầu lộn xuống.

Thân Trung Ấm trải qua chu kỳ kéo dài trong bảy ngày.Sau một tuần nếu Thân Trung Ấm gặp được tình cảnh thích hợp,nó sẽ tái sanh vào cảnh giới tương ứng thích hợp ấy.Nếu không,Thân Trung Ấm sẽ trải qua một cảnh chết nhỏ một lần nữa và sống trở lại như một Thân Trung Ấm.Tình trạng này có thể xảy ra bảy lần;tuy nhiên sau bốn mươi chín ngày,nó không còn kéo dài trạng thái Thân Trung Ấmbị bắt buộc đi đầu thai cho dù thích hay không thích.Khi thời giờ đã điểm để Thân Trung Ấm đi đầu thai; nó trông thấy chúng sanh cùng loại với nó đang vui đùa và nó sẽ nẩy sinh ý muốn tham gia.Những tinh chấttính cách tái tạo cuộc sống của cha mẹ tương lai của nó, ấy là tinh cha trứng mẹ.Cả hai,tinh cha và trứng mẹ là những gì rất đổi khác thường đối với Thân Trung Ấm.Thân Trung Ấm này sẽ có ảo tưởng rằng song thân nó có thể đã ngủ chung với nhau rồi dù thực tế không phải vậy. Nên nó mang lòng lưu luyến gắn bó với song thân. Nếu vị nào gần như có thể đầu thai làm con gái; theo kinh nói,vị ấy sẽ cảm thấy muốn cự tuyệt đẩy lui người mẹ và sẽ tìm cách ngủ với người cha do thúc đẩy bởi ái luyến chấp trước.Nếu vị nào có thể được sanh ra làm con trai,vị ấy sẽ cảm thấy muốn chống đối cự tuyệt người cha nhưng lại luyến ái với người mẹ và sẽ tìm cách ngủ với mẹ.Do sự thúc đẩy của loại dục niệm như vậy,cậu ta hay cô ta sẽ dõi theo bước chân của song thân.Thế rồi,không có phần thể nào của song thân hiển lộ ra đối với Thân Trung Ấm ngoại trừ bộ phận sinh dục và kết quả là nó cảm thấy bị trắc trở và sanh ra giận dữ.Sự phẫn nộ đó,trở thành điều kiện tất yếu làm cho trạng thái Thân Trung Ấm bị chết và đầu thai vào trong tử cung.Khi song thân giao hợp và đạt đến cao điểm nhục dục;Kinh nói,một hoặc hai giọt tinh dịch dầy đặc sẽ cùng trứng hòa hợp trộn lẫn với nhau như chất kem nổi trên mặt sữa nóng.Tại thời điểm đó, “ý thức” của Thân Trung Ấm sẽ ngừng hẳn và nhập ngay vào chất hỗn hợp này. Đó là dấu hiệu tiến vào tử cung.Cho dù song thân cũng có thể chưa giao hợp với nhau nhưng Thân Trung Ấm vẫn có ảo tưởng rằng cha mẹ đang giao hợp như vậy,nên nó sẽ tiến ngay đến nơi ấy.Điều này bao hàm chỉ cho những trường hợp xảy ra khi mà song thân có thể chưa giao hợp nhưng “ý thức” vẫn có thể thẳng tiến vào trong cơ phận thân thể rồi. Điều đó xác định rõ ràng trường hợp của những “thí quản thai nhi”[8] ngày nay.Khi dịch thể của song thân được thu nhặt, hòa trộn và chứa giữ trong một cái ống thì “ý thức”có thể nhập ngay vào dung hợp này mà không cần phảisự thật thụ giao hợp.

Ngài Shantideva nói rằng: dẫu là súc sanh cũng còn tìm cách trải qua được kinh nghiệm lạc thú,và tránh né khổ đau trong đời này.Ta phải chuyên chú chuyển hướng tương lai; bằng không ta sẽ chẳng khác gì cầm thú.Sự tỉnh thức đối với cái chết là chiếc bàn thạch vững chắc của trọn vẹn chánh đạo.Ngoại trừ bạn phát triển được loại giác ngộ này;nếu không, tất cả mọi phương thức tu hành khác đều bị tắc nghẽn.Phật pháp là hướng đạo viên dìu dắt ta băng ngang vùng đất chưa quen; Phật phápthực phẩm nuôi sống cuộc hành trình;Phật pháp là vị thuyền trưởng đưa dẫn ta đến bến bờ Niết Bàn xa lạ.Vì thế, hãy dốc toàn lực thân,ngữ, ý dung hòa vào quá trình tu hành. Đàm luận về pháp tu quán tưởng đến cái chết và lẽ vô thường rất dễ,nhưng thực tế tu hành quả thật không phải dễ dàng.Và ngay cả khi thực tu;lắm lúc cũng chẳng nhận biết được bao nhiêu biến chuyển đang thay đổi nhất là khi ta chỉ so sánh giữa hôm qua và hôm nay.Quả có sự nguy hiểm làm mất đi hy vọng và trở nên nản lòng.Trong trường hợp như vậy,thật hoàn toàn hữu ích khi không so sánh giữa sự khác biệt của mấy ngày hoặc mấy tuần.Tốt hơn nên cố gắng so sánh tâm cảnh hiện giờ với tâm cảnh năm năm hay mười năm về trước,rồi ta sẽ thấy đã từng có một vài thay đổi trong lối kiến giải,trong năng lực hiểu biết,trong tính chất tự phát và trong cách đáp ứng với tu hành kể trên.

Chính từ trong những thay đổi ấy, phát xuất ra cội nguồn của một sự khích lệ vô cùng to lớn.Điều này sẽ thật sự cung ứng cho ta một niềm tin; bởi vì, nó đã chứng minh rằng có nỗ lực ắt hẳn ta sẽ có khả năng tiến thủ xa hơn.Còn thối chíquyết định trì hoãn việc tu hành nhằm chờ đợi một dịp khác thuận tiện hơn thì quả là điều rất nguy hiểm.

 



 
[1] Geshe Sha-ra-wa: Cách Tây Hạ La Va

[2] Milarepa:Mật Lặc Nhựt Ba.

[3] Gung-Thang Rinpoche: Đường Nhơn Ba Thiết

[4] Geshe:Cách Tây

[5] Vô Thượng Du Già Mật pháp; Highest Yoga Tantra

[6] Quá trình tản thất thể ôn: process of the dissolution of the body’s warmth. Chú giải: đây là giai đoạn hơi ấm của thân thể tiêu tan dần, biến thể xác cứng lạnh và hồn phách rời khỏi thân xác.

[7] Thân Trung Ấm: the bardo

[8] Thí quản thai nhi: test tube baby.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6108)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9984)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7090)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7333)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6990)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9352)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5834)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7100)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6521)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6098)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7161)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14382)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20434)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9471)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7869)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8185)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7450)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9374)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7444)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7479)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7666)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9470)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8780)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7371)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7957)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7012)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7668)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9859)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8281)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8834)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7669)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8825)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8628)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 7999)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9011)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9428)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8733)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8880)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7226)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9184)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8596)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7889)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9619)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10165)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8760)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8369)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7623)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9329)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7478)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15350)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7300)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8479)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12238)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7302)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11493)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8313)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8040)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7904)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8919)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7409)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant