Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bạn Có Tin Tưởng Tái Sinh Không?

14 Tháng Hai 201509:36(Xem: 7742)
Bạn Có Tin Tưởng Tái Sinh Không?
BẠN CÓ TIN TƯỞNG TÁI SINH KHÔNG?

Tác giả: Alexander Berzin
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 16/03/2010



Bạn Có Tin Tưởng Tái Sinh KhôngHỎI: Bạn có tin tưởng tái sinh không?

ĐÁP: Vâng, tôi tin. Nhưng, phải lâu lắm tôi mới đạt đến điểm này. Tin tưởng tái sinh không đến một cách ngay lập tức. Một số người có thể đến từ một truyền thống tin tưởngtái sinh như một phần trong nếp sống văn hóa. Đây là trường hợp trong nhiều quốc gia Á châu, và vì thế, vì người ta đã từng nghe về tái sinh từ khi họ còn là những thiếu niên, sự tin tưởng điều ấy trở thành một cách tự động. Tuy nhiên, những điều ấy đối với chúng ta từ những nền văn hóa Tây phương, nó dường như lạ lùng lúc ban đầu. Chúng ta thường không dễ bị thuyết phục trong vấn đề tái sinh ngay tức thì, với những cầu vồng và âm nhạc phía sau lưng và “Chúa nhân từ ơi! Bây giờ tôi tin!” Nó không thường hoạt động như thế.

Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy. Đầu tiên, tôi đã trở nên cởi mở với ý niệm ấy trong ý nghĩa mà tôi đã nghĩ, “tôi không thật sự thấu hiểu vấn đề tái sinh.” Thừa nhận rằng chúng ta không hiểu nó là quan trọng, bởi vì đôi khi chúng ta có thể phủ nhận tái sinh và những gì chúng ta đang thật sự phủ nhận là một ý niệm về tái sinhPhật giáo cũng phủ nhận. Ai đấy có thể nghĩ, “tôi không tin tưởng vấn đề tái sinh bởi vì tôi không nghĩ rằng có một linh hồn với đôi cánh bay khỏi thân thểđi vào trong một thân thể khác.” Những người Phật tử đồng ý, “Chúng tôi cũng không tin vấn đề một linh hồn với đôi cánh.” Nhằm để quyết định tôi có tin tưởng tái sinh hay không, tôi đã phải thấu hiểu khái niệm tái sinh của Đạo Phật, và khái niệm ấy thì không đơn giản. Nó rất phức tạp, khi quý vị có thể thấy từ điều tôi đã giải thích trước đây về tâm thức vi tế (tám hay sáu thức tâm vương) và năng lượng, và những thiên hướng bản năng đi cùng với nó.

Rồi thì tôi đã nghĩ hãy để cho tái sinh cái lợi ích của sự nghi ngờ. Nhất thời, hãy đề chúng ta nói rằng có sự tái sinh. Bây giờ, những gì đi theo với cái nhìn trong sự hiện hữu, sự tồn tại của chúng ta trong cách này? Chúng ta có thể thiết lập tất cả những sự rèn luyện bồ tát đạo, để rồi chúng ta có thể nhận ra mọi người như đã từng là những bà mẹ của chúng ta vì thế có thể cảm thấy một sự liên hệ nào đấy với tất cả.

Cũng có thể giải thích tại sao mọi thứ đã xãy ra trong cuộc đời của tôi đã xãy ra. Tại sao một số người từ cùng nền văn hóa như tôi đã có khuynh hướng mạnh mẽ để học tiếng Trung Hoa? Tại sao tôi đã được đưa đẩy để đi đến Ấn Độ học tiếng Tây Tạng? Lưu ý đến những sự quan tâm của gia đình tôi và trong môi trường mà tôi đã lớn lên, thật không hiểu vì sao tôi lại thích thú trong những thứ này. Tuy nhiên, khi đã nghĩ trong dạng thức của tái sinh, đã có một sự giải thích. Tôi phải đã từng có một số nối kết với Ấn Độ, Trung Hoa, và Tây Tạng trong những kiếp sống khác nhau, và điều này đã làm cho tôi bị hấp dẫn trong những vùng đất này, văn hóangôn ngữ của họ. Tái sinh đã bắt đầu trả lời nhiều câu hỏi mà tôi không thể tìm bất cứ một đáp án nào trong những trường hợp khác; nếu không có những đời sống quá khứ và không có nghiệp báo, thế thì những gì đã xãy ra trong đời sống của tôi không làm nên bất cứ một ý nghĩa nào. Tái sinh cũng có thể giải thích những giấc mơ lập đi lập lại mà tôi thường có. Trong cách này, tôi đã bắt đầu một cách chậm rãi trở nên quen thuộc với nó.

Tôi đang học hỏiẤn Độ trong mười chín năm qua và đã có một đặc ân và cơ hội lớn lao để học hỏi với một số vị đạo sư rất già trong khi họ vẫn còn sống. Nhiều người trong họ đã tạ thế và đã trở lại, và bây giờ tôi gặp lại họ một lần nữa như những thiếu nhi. Tôi biết các ngài trong hai kiếp sống.

Trong một điểm nào đấy của con đường Phật giáo mà với nó bạn có thể kiểm soát sự tái sinh của bạn. Bạn không cần phải là một vị Phật, hay ngay cả là một vị giải thoát, một vị a la hớn, để làm việc này. Tuy nhiên, bạn nhất thiết phải là một vị bồ tát. Bạn có thể cũng cần thiết được trau dồi nâng cao đến một tầng bậc nào đấy trên con đường mật thừa tantric và để có một quyết định vô cùng mạnh mẽ để tái sinh trong một hình sắc vì thế bạn có thể hổ trợ mọi người. Có những phép quán tưởngphương pháp nào đấy mà có thể cho phép bạn chuyển hóa cái chết, thân trung ấmtái sinh. Nếu bạn đã điều khiển được trình độ ấy, bạn có thể kiểm soát sự tái sinh của bạn. Có khoảng hơn một nghìn người trong những người Tây Tạng, những người đã đạt đến trình độ ấy và khi họ qua đời, họ được tìm thấy một lần nữa. Trong hệ thống Tây Tạng, họ được gọi là hóa thân (tulkus). Một hóa thân là một vị lạt ma tái sinh, một số người cho nhãn hiệu Rinpoche. Danh hiệu Rinpoche, tuy thế, không được dùng một cách rộng rãi cho những hóa thân (tulkus), hay lạt ma tái sinh. Nó cũng được dùng cho một vị trụ trì hay một vị viện chủ tu viện nghĩ hưu. Không phải người nào được gọi Rinpoche cũng là một vị lạt ma tái sinh.

Cũng thế, tôi cũng chỉ ra rằng cung cách mà từ ngữ lạt ma được sử dụng không giống nhau từ một truyền thống này đến một truyền thống khác của Tây Tạng. Trong một số, lạt ma liên hệ đến một vị thầy tâm linh rất cao (thượng sư), chẳng hạn như một geshe – một người tương đương với một tiến sĩ Phật học (Ph.D) – hay một vị lạt ma tái sinh. Trong một số truyền thống, lạt ma được dùng cho một số người thực hiện chức năng một phần nào đó giống như một tu sĩ cộng đồng. Vị này đã hoàn thành một khóa tu ba năm và đã học tập những nghi thức khác nhau. Người ấy, sư thầy hay sư cô, sau đó sẽ đi đến những làng mạc và thực hiện các nghi lễ trong những tư gia người dân. Danh xưng lạt ma có thể có những ý nghĩa khác nhau.

Một lần nữa, có khoảng hơn một nghìn lạt ma tái sinh được công nhận, hay hóa thân (tulkus), và họ được minh chứng qua những cống hiến khác nhau mà chính họ đã ban cho cũng như bằng những cống hiến khác chẳng hạn như những lời tiên tri hay những dấu hiệu nổi bật trong môi trường. Những thị giả của những vị lạt ma trước đây sẽ tìm kiếm những vị mới tái sinh. Họ sẽ mang những chủ đề nghi thức và những vật tùy thân của những vị lạt ma trước đây cùng với những vật tương tự khác. Cậu bé sẽ có thể nhận ra vật gì thuộc đời sống của vị trước đây. Thí dụ, Đấng Hiện Diện Thánh Thiện Tối Thượng, Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhận ra những người đến tìm ngài. Ngài gọi tên của họ và bắt đầu nói chuyện với họ bằng phương ngữ Lhasa, mà đấy không phải là ngôn ngữ địa phương ngài sinh ra. Bằng những dấu hiệu như thế, họ có thể xác định cậu bé.

ling-rinpoche

Ling Rinpoche (1903-1983)

Gặp gở những vị thầy của tôi một lần trong đời sống kế tiếp của các ngài đã hoàn toàn gây ấn tượng sâu sắc và cảm động đối với tôi. Thí dụ ấn tượng nhất là Ling Rinpoche, người là vị trưởng lão giáo thọ của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài cũng là thượng thủ của tông Hiền Nhân - Hoàng Mạo – Gelug. Khi ngài viên tịch, ngài đã duy trì trong thiền định gần hai tuần lễ, mặc dù hơi thở của ngài đã dứt và đối với mọi kết quả y khoa, ngài xem như đã chết. Tuy nhiên, tâm thức vi tế của ngài vẫn còn trong thân thể của ngài: ngài đã chìm lắng trong một cơn thiền định rất thậm thâm với tâm thức rất vi tế. Vùng chung quanh trái tim vẫn âm ấm nhẹ nhàng, ngài ngồi trong tư thế thiền định với thân thể không có sự phân hủy. Khi ngài chấm dứt cơn thiền định, đầu của ngài hơi nghiêng và một ít máu rĩ ra từ lỗ mũi ngài. Vào lúc ấy, tâm thức của ngài đã rời thân thể.

Ở Dharamsala, nơi tôi ở, những sự kiện như thế này xãy ra hai, ba, bốn lần mỗi năm. Nó không phải là bất thường, mặc dù ai đấy cần phải đạt đến một trình độ cao cấp của sự thực hành tâm linh để thực hiện điều này. Khả năng này có thể đạt được.

Hóa thân Linh Rinpoche được công nhận khi ngài được một tuổi chín tháng. Thông thường, những thiếu nhi không được xác nhận quá trẻ, bởi vì khi các vị lớn hơn – khoảng ba hay bốn tuổi – các vị có thể nói và đưa ra một số chỉ dẫn về họ. Vị ấy được đưa về lại ngôi nhà mình. Có một lễ đón mừng vô cùng long trọng để chào đón vị ấy. Vài nghìn người đứng xếp hàng trên những con đường , và tôi đã có sự may mắn cùng với những người chào đón ấy. Họ sẽ mặc những trang phục đặc biệt và ca hát. Đấy là một sự kiện vô cùng hoan hỉ.

HỎI: Làm thế nào vị thiếu nhi ấy được xác nhận?

ĐÁP: Việc ấy qua những lời tiên tri, những điềm lành biểu hiện và những đồng tử ngoại cảm, cũng như khả năng có thể nhận ra những đồ vật đa dạng từ đời sống trước đây của vị ấy. Cũng là vị ấy biểu lộ những đặc trưng thân thể nào đấy. Thí dụ, tiền thân của vị ấy luôn luôn cầm xâu chuỗi với hai tay, và vị thiếu nhi cũng làm như thế. Vị ấy cũng nhận ra những người sống cùng nhà (không phải là sư thầy hay sư cô).

Tuy nhiên điều thuyết phục đối với tôi nhất là thái độ cử chỉ của vị thiếu nhi trong những buổi lễ. Vị thiếu nhi được đưa đến một lễ đường nơi một pháp tòa được thiết lập gần cửa ra vào nhìn ra hiên nhà và hai hay ba nghìn người tập họp trong sân. Hầu hết những thiếu nhi dưới hai tuổi có thể rất hãi sợ trong những tình cảnh như thế. Vị ấy thì không. Người ta đưa vị thiếu nhi lên tòa sư tử. Thông thường, một thiếu nhi muốn đi xuống và muốn khóc nếu không thể tìm ra lối của mình. Vị thiếu nhi này ngồi xếp bằng mà không di chuyển cả tiếng rưởi đồng hồ trong khi mọi người tiến hành một nghi thức cầu nguyện trường thọ cho vị ấy. Vị ấy hoàn toàn thích thú với những gì diễn ra, và ngự giữa một đám đông khổng lồ không làm vị ấy chán nãn chút nào.

Nhiệm vụ của buổi lễ hàm ý cúng dường cho vị lạt mathỉnh cầu ngài sống trường thọ. Có một dòng người, mỗi người cầm vật phẩm cúng dường – một tượng Phật, một bộ kinh, một tháp biểu tượng, một bộ y, và nhiều thứ khác. Khi ai đấy cúng dường đến vị ấy, vị ấy phải đón nhận với hai tay và đưa nó cho một người đứng bên trái của vị ấy. Vị ấy đã làm điều này một cách hoàn hảo với mỗi đối tượng. Đấy là điều thật sự ấn tượng! Làm thế nào chúng ta có thể dạy một đứa bé một tuổi chín tháng làm những việc như thế ấy? Bạn không thể.

Khi buổi lễ đã chấm dứt, tất cả mọi người xếp hàng để nhận sự gia hộ từ bàn tay ngài. Một người nào đấy bồng vị ấy, và ngài đưa tay ban phúc, nắm tay trong một tư thế chính xác. Với sự hoàn toàn chăm chú, và không đánh mất sự thích thú hay cảm thấy mệt mõi, vị thiếu nhi ấy sau đấy đưa tay ban phúc đến hai hay ba nghìn người. Sau đấy, Đấng Hiện Diện Thánh Thiện Tối Thượng, Đức Đạt Lai Lạt Ma dùng buổi trưa với vị thiếu nhi ấy và họ cùng bên nhau trong khoảng thời gian. Chỉ một lần vị thiếu nhi ấy đã khóc và lầm ồn ào là khi Đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu rời khỏi. Vị ấy không muốn ngài đi.

Thật sự, vị thiếu nhi đã ban phúc bằng tay ngay cả trước khi ngài được công nhậnhiện thân của Ling Rinpoche. Cả ngài và người anh của ngài ở trong một trại mồ côi, vì bà mẹ đã lìa đời không bao lâu khi ngài được sinh ra. Người cha rất nghèo và vì thế đã đưa những đứa trẻ vào trại mồ côi. Ngài đã dùng tay ban phúc cho những người ở đấy. Anh của ngài, ba hay bốn tuổi, thường nói với mọi người, “Em tôi rất là đặc biệt. Đấy là một lạt ma. Đấy là một Rinpoche. Đừng nghĩ bất cứ điều gì xấu với em tôi. Hãy cư xử đặc biệt với em tôi.”

kyabjelingrinpoche

Ling Rinpoche hiện tại

Những tiền thân của Ling Rinpoch đã từng là giáo thọ cho ba Đức Đạt Lai Lạt Ma liên tiếp. Một vị Ling Rinpoche đã là giáo thọ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười hai; Ling Rinpoche tiếp theogiáo thọ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba; vị kế tiếpgiáo thọ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn. Một cách chắc chắn, người ta xem vị này sẽ là giáo thọ cho Đức Đạt Lai Lạt Ma kế tiếp.

Chứng kiến những thí dụ này đã tạo nên một ấn tượng to lớn trong tôi về sự có thể thực hiện được những đời sống tương lai. Do thế, bằng suy tư, bằng nghe những câu chuyện và bằng chứng kiến những việc như thế này, dần dần người ta trở nên bị thuyết phục về sự hiện hữu của đời sống quá khứ và tương lai. Nếu bạn hỏi tôi bây giờ, “Ông có tin về những đời sống tương lai không?” Vâng, tôi tin.

HỎI: Có phải những hóa thân lạt ma chỉ tìm thấy trong những người Tây Tạng?

ĐÁP: Không, khoảng bảy vị cũng đã được công nhận trong những quốc gia phương Tây. Một trong những vị ấy là, Lạt ma Osel, hóa thân của Lạt ma Thubten Yeshe, một thiếu nhi Tây Ban Nha. Gặp gở Lạt ma Osel đã làm cho những người đã biết Lạt ma Yeshe phải tin chắc trong sự tái sinh.

Do You Believe in Rebirth?
Alexander Berzin
Singapore, August 10, 1988
Revised excerpt from
Berzin, Alexander and Chodron, Thubten. Glimpse of Reality.
Singapore: Amitabha Buddhist Centre, 1999.
Tuệ Uyển chuyển ngữ
23-03-2010
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives

Những bài liên hệ:
Nghiệp báo: giới thiệu tổng quát
Nghiệp báotái sinh: những câu hỏi căn bản
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 38515)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14661)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14661)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14083)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14978)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16576)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29922)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16239)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15564)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14927)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14918)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17898)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15605)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38701)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26755)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39695)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50812)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38775)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35083)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18333)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16492)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42432)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39283)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35642)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17477)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46558)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17173)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28517)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 19016)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17610)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17128)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17574)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16556)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16921)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30879)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16956)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18529)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18490)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17398)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18180)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17087)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23527)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 17014)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17477)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17696)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17077)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15758)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18070)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17450)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17232)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29552)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27757)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18198)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16133)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15390)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23068)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14861)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55153)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14217)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13268)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant