Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bạn Có Tin Tưởng Tái Sinh Không?

14 Tháng Hai 201509:36(Xem: 7666)
Bạn Có Tin Tưởng Tái Sinh Không?
BẠN CÓ TIN TƯỞNG TÁI SINH KHÔNG?

Tác giả: Alexander Berzin
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 16/03/2010



Bạn Có Tin Tưởng Tái Sinh KhôngHỎI: Bạn có tin tưởng tái sinh không?

ĐÁP: Vâng, tôi tin. Nhưng, phải lâu lắm tôi mới đạt đến điểm này. Tin tưởng tái sinh không đến một cách ngay lập tức. Một số người có thể đến từ một truyền thống tin tưởngtái sinh như một phần trong nếp sống văn hóa. Đây là trường hợp trong nhiều quốc gia Á châu, và vì thế, vì người ta đã từng nghe về tái sinh từ khi họ còn là những thiếu niên, sự tin tưởng điều ấy trở thành một cách tự động. Tuy nhiên, những điều ấy đối với chúng ta từ những nền văn hóa Tây phương, nó dường như lạ lùng lúc ban đầu. Chúng ta thường không dễ bị thuyết phục trong vấn đề tái sinh ngay tức thì, với những cầu vồng và âm nhạc phía sau lưng và “Chúa nhân từ ơi! Bây giờ tôi tin!” Nó không thường hoạt động như thế.

Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy. Đầu tiên, tôi đã trở nên cởi mở với ý niệm ấy trong ý nghĩa mà tôi đã nghĩ, “tôi không thật sự thấu hiểu vấn đề tái sinh.” Thừa nhận rằng chúng ta không hiểu nó là quan trọng, bởi vì đôi khi chúng ta có thể phủ nhận tái sinh và những gì chúng ta đang thật sự phủ nhận là một ý niệm về tái sinhPhật giáo cũng phủ nhận. Ai đấy có thể nghĩ, “tôi không tin tưởng vấn đề tái sinh bởi vì tôi không nghĩ rằng có một linh hồn với đôi cánh bay khỏi thân thểđi vào trong một thân thể khác.” Những người Phật tử đồng ý, “Chúng tôi cũng không tin vấn đề một linh hồn với đôi cánh.” Nhằm để quyết định tôi có tin tưởng tái sinh hay không, tôi đã phải thấu hiểu khái niệm tái sinh của Đạo Phật, và khái niệm ấy thì không đơn giản. Nó rất phức tạp, khi quý vị có thể thấy từ điều tôi đã giải thích trước đây về tâm thức vi tế (tám hay sáu thức tâm vương) và năng lượng, và những thiên hướng bản năng đi cùng với nó.

Rồi thì tôi đã nghĩ hãy để cho tái sinh cái lợi ích của sự nghi ngờ. Nhất thời, hãy đề chúng ta nói rằng có sự tái sinh. Bây giờ, những gì đi theo với cái nhìn trong sự hiện hữu, sự tồn tại của chúng ta trong cách này? Chúng ta có thể thiết lập tất cả những sự rèn luyện bồ tát đạo, để rồi chúng ta có thể nhận ra mọi người như đã từng là những bà mẹ của chúng ta vì thế có thể cảm thấy một sự liên hệ nào đấy với tất cả.

Cũng có thể giải thích tại sao mọi thứ đã xãy ra trong cuộc đời của tôi đã xãy ra. Tại sao một số người từ cùng nền văn hóa như tôi đã có khuynh hướng mạnh mẽ để học tiếng Trung Hoa? Tại sao tôi đã được đưa đẩy để đi đến Ấn Độ học tiếng Tây Tạng? Lưu ý đến những sự quan tâm của gia đình tôi và trong môi trường mà tôi đã lớn lên, thật không hiểu vì sao tôi lại thích thú trong những thứ này. Tuy nhiên, khi đã nghĩ trong dạng thức của tái sinh, đã có một sự giải thích. Tôi phải đã từng có một số nối kết với Ấn Độ, Trung Hoa, và Tây Tạng trong những kiếp sống khác nhau, và điều này đã làm cho tôi bị hấp dẫn trong những vùng đất này, văn hóangôn ngữ của họ. Tái sinh đã bắt đầu trả lời nhiều câu hỏi mà tôi không thể tìm bất cứ một đáp án nào trong những trường hợp khác; nếu không có những đời sống quá khứ và không có nghiệp báo, thế thì những gì đã xãy ra trong đời sống của tôi không làm nên bất cứ một ý nghĩa nào. Tái sinh cũng có thể giải thích những giấc mơ lập đi lập lại mà tôi thường có. Trong cách này, tôi đã bắt đầu một cách chậm rãi trở nên quen thuộc với nó.

Tôi đang học hỏiẤn Độ trong mười chín năm qua và đã có một đặc ân và cơ hội lớn lao để học hỏi với một số vị đạo sư rất già trong khi họ vẫn còn sống. Nhiều người trong họ đã tạ thế và đã trở lại, và bây giờ tôi gặp lại họ một lần nữa như những thiếu nhi. Tôi biết các ngài trong hai kiếp sống.

Trong một điểm nào đấy của con đường Phật giáo mà với nó bạn có thể kiểm soát sự tái sinh của bạn. Bạn không cần phải là một vị Phật, hay ngay cả là một vị giải thoát, một vị a la hớn, để làm việc này. Tuy nhiên, bạn nhất thiết phải là một vị bồ tát. Bạn có thể cũng cần thiết được trau dồi nâng cao đến một tầng bậc nào đấy trên con đường mật thừa tantric và để có một quyết định vô cùng mạnh mẽ để tái sinh trong một hình sắc vì thế bạn có thể hổ trợ mọi người. Có những phép quán tưởngphương pháp nào đấy mà có thể cho phép bạn chuyển hóa cái chết, thân trung ấmtái sinh. Nếu bạn đã điều khiển được trình độ ấy, bạn có thể kiểm soát sự tái sinh của bạn. Có khoảng hơn một nghìn người trong những người Tây Tạng, những người đã đạt đến trình độ ấy và khi họ qua đời, họ được tìm thấy một lần nữa. Trong hệ thống Tây Tạng, họ được gọi là hóa thân (tulkus). Một hóa thân là một vị lạt ma tái sinh, một số người cho nhãn hiệu Rinpoche. Danh hiệu Rinpoche, tuy thế, không được dùng một cách rộng rãi cho những hóa thân (tulkus), hay lạt ma tái sinh. Nó cũng được dùng cho một vị trụ trì hay một vị viện chủ tu viện nghĩ hưu. Không phải người nào được gọi Rinpoche cũng là một vị lạt ma tái sinh.

Cũng thế, tôi cũng chỉ ra rằng cung cách mà từ ngữ lạt ma được sử dụng không giống nhau từ một truyền thống này đến một truyền thống khác của Tây Tạng. Trong một số, lạt ma liên hệ đến một vị thầy tâm linh rất cao (thượng sư), chẳng hạn như một geshe – một người tương đương với một tiến sĩ Phật học (Ph.D) – hay một vị lạt ma tái sinh. Trong một số truyền thống, lạt ma được dùng cho một số người thực hiện chức năng một phần nào đó giống như một tu sĩ cộng đồng. Vị này đã hoàn thành một khóa tu ba năm và đã học tập những nghi thức khác nhau. Người ấy, sư thầy hay sư cô, sau đó sẽ đi đến những làng mạc và thực hiện các nghi lễ trong những tư gia người dân. Danh xưng lạt ma có thể có những ý nghĩa khác nhau.

Một lần nữa, có khoảng hơn một nghìn lạt ma tái sinh được công nhận, hay hóa thân (tulkus), và họ được minh chứng qua những cống hiến khác nhau mà chính họ đã ban cho cũng như bằng những cống hiến khác chẳng hạn như những lời tiên tri hay những dấu hiệu nổi bật trong môi trường. Những thị giả của những vị lạt ma trước đây sẽ tìm kiếm những vị mới tái sinh. Họ sẽ mang những chủ đề nghi thức và những vật tùy thân của những vị lạt ma trước đây cùng với những vật tương tự khác. Cậu bé sẽ có thể nhận ra vật gì thuộc đời sống của vị trước đây. Thí dụ, Đấng Hiện Diện Thánh Thiện Tối Thượng, Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhận ra những người đến tìm ngài. Ngài gọi tên của họ và bắt đầu nói chuyện với họ bằng phương ngữ Lhasa, mà đấy không phải là ngôn ngữ địa phương ngài sinh ra. Bằng những dấu hiệu như thế, họ có thể xác định cậu bé.

ling-rinpoche

Ling Rinpoche (1903-1983)

Gặp gở những vị thầy của tôi một lần trong đời sống kế tiếp của các ngài đã hoàn toàn gây ấn tượng sâu sắc và cảm động đối với tôi. Thí dụ ấn tượng nhất là Ling Rinpoche, người là vị trưởng lão giáo thọ của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài cũng là thượng thủ của tông Hiền Nhân - Hoàng Mạo – Gelug. Khi ngài viên tịch, ngài đã duy trì trong thiền định gần hai tuần lễ, mặc dù hơi thở của ngài đã dứt và đối với mọi kết quả y khoa, ngài xem như đã chết. Tuy nhiên, tâm thức vi tế của ngài vẫn còn trong thân thể của ngài: ngài đã chìm lắng trong một cơn thiền định rất thậm thâm với tâm thức rất vi tế. Vùng chung quanh trái tim vẫn âm ấm nhẹ nhàng, ngài ngồi trong tư thế thiền định với thân thể không có sự phân hủy. Khi ngài chấm dứt cơn thiền định, đầu của ngài hơi nghiêng và một ít máu rĩ ra từ lỗ mũi ngài. Vào lúc ấy, tâm thức của ngài đã rời thân thể.

Ở Dharamsala, nơi tôi ở, những sự kiện như thế này xãy ra hai, ba, bốn lần mỗi năm. Nó không phải là bất thường, mặc dù ai đấy cần phải đạt đến một trình độ cao cấp của sự thực hành tâm linh để thực hiện điều này. Khả năng này có thể đạt được.

Hóa thân Linh Rinpoche được công nhận khi ngài được một tuổi chín tháng. Thông thường, những thiếu nhi không được xác nhận quá trẻ, bởi vì khi các vị lớn hơn – khoảng ba hay bốn tuổi – các vị có thể nói và đưa ra một số chỉ dẫn về họ. Vị ấy được đưa về lại ngôi nhà mình. Có một lễ đón mừng vô cùng long trọng để chào đón vị ấy. Vài nghìn người đứng xếp hàng trên những con đường , và tôi đã có sự may mắn cùng với những người chào đón ấy. Họ sẽ mặc những trang phục đặc biệt và ca hát. Đấy là một sự kiện vô cùng hoan hỉ.

HỎI: Làm thế nào vị thiếu nhi ấy được xác nhận?

ĐÁP: Việc ấy qua những lời tiên tri, những điềm lành biểu hiện và những đồng tử ngoại cảm, cũng như khả năng có thể nhận ra những đồ vật đa dạng từ đời sống trước đây của vị ấy. Cũng là vị ấy biểu lộ những đặc trưng thân thể nào đấy. Thí dụ, tiền thân của vị ấy luôn luôn cầm xâu chuỗi với hai tay, và vị thiếu nhi cũng làm như thế. Vị ấy cũng nhận ra những người sống cùng nhà (không phải là sư thầy hay sư cô).

Tuy nhiên điều thuyết phục đối với tôi nhất là thái độ cử chỉ của vị thiếu nhi trong những buổi lễ. Vị thiếu nhi được đưa đến một lễ đường nơi một pháp tòa được thiết lập gần cửa ra vào nhìn ra hiên nhà và hai hay ba nghìn người tập họp trong sân. Hầu hết những thiếu nhi dưới hai tuổi có thể rất hãi sợ trong những tình cảnh như thế. Vị ấy thì không. Người ta đưa vị thiếu nhi lên tòa sư tử. Thông thường, một thiếu nhi muốn đi xuống và muốn khóc nếu không thể tìm ra lối của mình. Vị thiếu nhi này ngồi xếp bằng mà không di chuyển cả tiếng rưởi đồng hồ trong khi mọi người tiến hành một nghi thức cầu nguyện trường thọ cho vị ấy. Vị ấy hoàn toàn thích thú với những gì diễn ra, và ngự giữa một đám đông khổng lồ không làm vị ấy chán nãn chút nào.

Nhiệm vụ của buổi lễ hàm ý cúng dường cho vị lạt mathỉnh cầu ngài sống trường thọ. Có một dòng người, mỗi người cầm vật phẩm cúng dường – một tượng Phật, một bộ kinh, một tháp biểu tượng, một bộ y, và nhiều thứ khác. Khi ai đấy cúng dường đến vị ấy, vị ấy phải đón nhận với hai tay và đưa nó cho một người đứng bên trái của vị ấy. Vị ấy đã làm điều này một cách hoàn hảo với mỗi đối tượng. Đấy là điều thật sự ấn tượng! Làm thế nào chúng ta có thể dạy một đứa bé một tuổi chín tháng làm những việc như thế ấy? Bạn không thể.

Khi buổi lễ đã chấm dứt, tất cả mọi người xếp hàng để nhận sự gia hộ từ bàn tay ngài. Một người nào đấy bồng vị ấy, và ngài đưa tay ban phúc, nắm tay trong một tư thế chính xác. Với sự hoàn toàn chăm chú, và không đánh mất sự thích thú hay cảm thấy mệt mõi, vị thiếu nhi ấy sau đấy đưa tay ban phúc đến hai hay ba nghìn người. Sau đấy, Đấng Hiện Diện Thánh Thiện Tối Thượng, Đức Đạt Lai Lạt Ma dùng buổi trưa với vị thiếu nhi ấy và họ cùng bên nhau trong khoảng thời gian. Chỉ một lần vị thiếu nhi ấy đã khóc và lầm ồn ào là khi Đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu rời khỏi. Vị ấy không muốn ngài đi.

Thật sự, vị thiếu nhi đã ban phúc bằng tay ngay cả trước khi ngài được công nhậnhiện thân của Ling Rinpoche. Cả ngài và người anh của ngài ở trong một trại mồ côi, vì bà mẹ đã lìa đời không bao lâu khi ngài được sinh ra. Người cha rất nghèo và vì thế đã đưa những đứa trẻ vào trại mồ côi. Ngài đã dùng tay ban phúc cho những người ở đấy. Anh của ngài, ba hay bốn tuổi, thường nói với mọi người, “Em tôi rất là đặc biệt. Đấy là một lạt ma. Đấy là một Rinpoche. Đừng nghĩ bất cứ điều gì xấu với em tôi. Hãy cư xử đặc biệt với em tôi.”

kyabjelingrinpoche

Ling Rinpoche hiện tại

Những tiền thân của Ling Rinpoch đã từng là giáo thọ cho ba Đức Đạt Lai Lạt Ma liên tiếp. Một vị Ling Rinpoche đã là giáo thọ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười hai; Ling Rinpoche tiếp theogiáo thọ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba; vị kế tiếpgiáo thọ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn. Một cách chắc chắn, người ta xem vị này sẽ là giáo thọ cho Đức Đạt Lai Lạt Ma kế tiếp.

Chứng kiến những thí dụ này đã tạo nên một ấn tượng to lớn trong tôi về sự có thể thực hiện được những đời sống tương lai. Do thế, bằng suy tư, bằng nghe những câu chuyện và bằng chứng kiến những việc như thế này, dần dần người ta trở nên bị thuyết phục về sự hiện hữu của đời sống quá khứ và tương lai. Nếu bạn hỏi tôi bây giờ, “Ông có tin về những đời sống tương lai không?” Vâng, tôi tin.

HỎI: Có phải những hóa thân lạt ma chỉ tìm thấy trong những người Tây Tạng?

ĐÁP: Không, khoảng bảy vị cũng đã được công nhận trong những quốc gia phương Tây. Một trong những vị ấy là, Lạt ma Osel, hóa thân của Lạt ma Thubten Yeshe, một thiếu nhi Tây Ban Nha. Gặp gở Lạt ma Osel đã làm cho những người đã biết Lạt ma Yeshe phải tin chắc trong sự tái sinh.

Do You Believe in Rebirth?
Alexander Berzin
Singapore, August 10, 1988
Revised excerpt from
Berzin, Alexander and Chodron, Thubten. Glimpse of Reality.
Singapore: Amitabha Buddhist Centre, 1999.
Tuệ Uyển chuyển ngữ
23-03-2010
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives

Những bài liên hệ:
Nghiệp báo: giới thiệu tổng quát
Nghiệp báotái sinh: những câu hỏi căn bản
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 68)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 145)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 167)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 223)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 151)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 203)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 188)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 222)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 237)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 317)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 559)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 434)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 530)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 719)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 767)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 799)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 803)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 695)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 681)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 685)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 793)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 816)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 909)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 680)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 582)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 685)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 804)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 789)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 794)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 864)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 855)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1043)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 921)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1174)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1089)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1094)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1233)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1507)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1941)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1054)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1318)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1064)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 919)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1042)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1078)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1496)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1246)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1258)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 991)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1150)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant