Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tính Không Trong Đạo Phật

21 Tháng Sáu 201408:33(Xem: 8768)
Tính Không Trong Đạo Phật

"TÍNH KHÔNG" TRONG ĐẠO PHẬT

Nguyên Thảo


Phật tánh của chúng sanh chẳng hư, chẳng hoại, chẳng bị kéo, bị bắt, chẳng bị trói, bị buộc. Như trong chúng sanhhư không, vì tất cả chúng sanh đều có hư không chẳng chướng ngại, chúng sanh đều chẳng tự thấy mình có hư không này. Giả sử nếu chúng sanh chẳng có hư không thời không có những sự đến, đi, đứng, ngồi, nằm, chẳng sống chẳng lớn. Do nghĩa này nên trong kinh ta nói tất cả chúng sanh đều có hư không giới, hư không giới đây gọi là hư không. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy. Bực Thập trụ Bồ tát thấy được phần ít như châu kim cương."

Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo vì không thể hiểu được cái giáo lý cao thâm này đành buột lên những câu hồ đồ, cạn cợt để đánh giá thấp hay phỉ báng đạo Phật.

Đi tìm vào “Tính Không” thật là không đơn giản, vì “Không” nghĩa là gì? Không có nghĩa là không, là hư không hay là hư vô? Nhiều người đã cho Đạo Phật là đạo cứu cánh về Hư Vô đồng nghĩa với Hư Vô trong Lão giáo. Nhiều người lấy câu: “Ngũ uẩn giai không”“Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc” trong bài Kinh “Ma-ha Bát-Nhã Ba-la-Mật Đa Tâm Kinh” để triển khai rồi có cái nhìn không đúng vào Đạo Phật. Lại thêm trong bài Kinh ấy có thêm: “Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm” khiến cho người nghiên cứu, tìm hiểu có thêm sự rối rắm về chữ “không”!

Tại sao trong Đạo Phật lại có “Tính Không”?

Chúng ta cần ghi nhớ lại rằng: Đức Phật chỉ là Đạo sư, tức là người “chỉ đường” chứ không là một giáo chủ; tức là Đức Phật không sáng chế, hay tạo một phương thức đến con đường giải thoát, mà Đức Phật chỉ tuyên xưng, truyền bá con đường tự thể của nó phải tiến qua những bước, tiến trình, những giai đoạn như thế để đạt đến mục đích cuối cùng. Trước Đức Phật Thích Ca đã có vô số chúng sinh đã thành Phật; sau Đức Phật cũng sẽ có nhiều vị Phật sẽ thành và ngay trong thời Đức Phật cũng có nhiều người thành Phật, vì thế mới có Phật trong ba đời: Quá khứ, Hiện tại lẫn Vị lai. Tất cả đều cùng nương trên cùng một con đường như thế để thành đạo. Đức Phật Thích Ca truyền đạt con đường đó trên cõi Nam Diêm Phù Đề (Nam Thiệm Bộ Châu hay Ta Bà) hay trên trái đất cõi người của chúng ta này theo hạnh nguyện của Ngài.

Trong Kinh Lăng Nghiêm có ghi:

"Từ một thể chơn tâm không khác, vì vọng niệm phân biệt, có năng sở, bỉ thử sai khác, nên hiện rahư khôngthế giới. Nhơn có hư không thế giới nên mới có chúng sanh. Đã có thế giớichúng sanh lăng xăng đối đãi nhau, nên khởi lên vô số vọng tưởng phân biệt: Tốt, xấu, phải chẳng v..v...Vì thế mà sanh ra đủ các phiền não trần lao nhiễm ô. Cái có hình tướngsanh diệtthế giới, cái không hình tướngyên tịnhhư không, khác với hư không, thế giớichúng sanh vậy" (Kinh Lăng Nghiêm, Phật Học Phổ Thông khóa VI-VII, HT. Thích Thiện Hoa, trang 121).

Như vậy “Từ nơi Chơn Tâm, do vô minh vọng động mà có hư không. Hư không mờ mịtvô minh sanh” (LN, trang 121) và vì “vọng niệm phân biệt” nên có hư khôngthế giới. Những gì không thuộc thế giớihư khôngchúng sinh. Cũng trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã chỉ những nguyên nhân riêng và tuần tự sinh ra vũ trụ. Và cũng ở hư không đó, khi thành đạo Đức Phật cho biết thân Phật thật lớn “thân ta bao trùm mười phương hư không vô tận” và khi thật nhỏ “ngồi trong hạt bụi, mà chuyển đại pháp luân” mà không bị ngăn ngại nào cả.

Đức Phật còn nói đến tính không ấy trong Kinh "Đại Bát Niết Bàn" (HT. Thích Trí Tịnh dịch) như sau:

"Này Thiện nam tử! Vừa rồi ông hỏi cớ chi đức Như Lai dựa nằm chẳng ngồi dậy, chẳng đòi uống ăn, chẳng dặn bảo quyến thuộc coi sóc sản nghiệp.

Này Thiện nam tử! Tánh hư không cũng chẳng ngồi dậy, chẳng đòi uống ăn, chẳng dặn bảo quyến thuộc coi sóc sản nghiệp, cũng không đi, không lại, không sanh diệt, không già trẻ, không mọc lặn, hư bể, giải thoát, ràng buộc, cũng không nói mình, nói người, cũng không hiểu mình hiểu người, chẳng phải ăn, chẳng phải bịnh." (Trang 385, tập 1)

Và trong tập 2, Kinh Đại Bát Niết Bàn trang 247 lại ghi rõ hơn:

"Này Thiện nam tử! Tất cả các pháp vốn không có tánh, do nghĩa này nên ta nói kệ rằng:

Trước không nay có
Trước có nay không
Ba đời có pháp
Không có lẽ đó

Này Thiện nam tử! Tất cả pháp do nhơn duyên mà sanh cũng do nhơn duyên mà diệt.

Nếu chúng sanhPhật tánh, thời tất cả chúng sanh lẽ ra có thân Phật như ta hôm nay.

Phật tánh của chúng sanh chẳng hư, chẳng hoại, chẳng bị kéo, bị bắt, chẳng bị trói, bị buộc. Như trong chúng sanhhư không, vì tất cả chúng sanh đều có hư không chẳng chướng ngại, chúng sanh đều chẳng tự thấy mình có hư không này. Giả sử nếu chúng sanh chẳng có hư không thời không có những sự đến, đi, đứng, ngồi, nằm, chẳng sống chẳng lớn. Do nghĩa này nên trong kinh ta nói tất cả chúng sanh đều có hư không giới, hư không giới đây gọi là hư không. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy. Bực Thập trụ Bồ tát thấy được phần ít như châu kim cương."

Theo như những đoạn kinh dẫn chứng ở trên cho chúng ta có thể chiêm nghiệm được nhiều vấn đề để lý giải về “Tính Không” trong Đạo Phật.

Đầu tiên hư không được phát sinh từ cõi Chơn Tâm vì do vô minh vọng động, hư không mờ mịt vì do vô minh sinh; rồi vì “vọng niệm phân biệt” mà sinh ra thế giới, chúng sinh. Tất cả đều do những nguyên nhân, yếu tố đúng thời đúng lúc để kết hợp sinh ra cái khác (duyên sinh); cái sự kiện, vật này sinh là nguyên nhân cho cái khác kế tiếp được sinh ra cứ thế mà nối tiếp không ngừng nghỉ (trùng trùng duyên khởi). Nhưng mọi sự kiện đó khi đã có duyên sinh thì tất sẽ bị hoại diệt để rồi một cái khác sẽ thành hình theo quy luật: Sinh, trụ, dị, diệt; Thành, trụ, hoại không; và với con người, chúng sinh là sinh, lão, bệnh, tử.

Với hình sắc cụ thể (sắc) thì nó cũng không thường còn, luôn biến đổi theo thời gian hay từng sát-na (vô thường) để rồi khi chết hoặc hoại diệt thì nó lại trở về với cái “không”, những gì nó vay mượn từ các đại lại trả về với các đại; và trong trạng thái “không” đó lại chờ đợi duyên hợp khác để kết hợp thành cái khác; ở nơi cái khác sẽ hoại diệt để trở lại trạng thái không. Cho nên trong đạo Phật mới đề cập đến “không phi không”, “hữu phi hữu” (chơn không diệu hữu). Do vậy, “có có” hay “không không” cũng chỉ là hai hình thái khi ẩn khi hiện của cùng một bản thể! Cho nên Quán Tự-Tại Bồ Tát đã “hành thâm” quán triệt, thấy rõ năm uẩn đều là không; có sắc hay như khi không có sắc cũng chẳng khác gì nhau (không tức thị sắc, sắc tức thị không) nên không thấy là khổ nữa. Tương tự: Thọ, Tưởng, Hành, Thức theo cùng theo với sắc cũng sẽ là như vậy!

Còn với các pháp thì pháp vốn là không tướng, không sinh, không diệt, không dơ, không sạch cũng không tăng, không giảm, bất biến theo thời gian.

Trong bài: “Sơ lược ý nghĩa chữ “Không” trong Đạo Phật”, Thượng Tọa Thích Nhật Từ đã giải thích ý nghĩa chữ không trên sáu bình diện:

1-Không và Thiền định. (đến nơi trống rỗng để thiền định; và “an trú nơi trống rỗng hay tánh không”).

2-Tánh Không tức Vô Ngã. (Vì tánh Khôngtính không thực thể của ngã và các sự vật).

3-Tánh Không tức Duyên khởi, Vô Thường, Vô Ngã. (Đặc tính của sự vật là không thực thể hay duyên khởi hay vô ngã)

4-Tánh Không và Trung Đạo. (Thiền quán về tính khôngduyên khởi của các sự vật hiện tượng là một trong các cách trừ diệt các chấp thủ, tham ái và dẫn đến sự an tịnh các hành một cách có hiệu quả).

5-Phương pháp quán “không, giả và trung”. (Tất cả các sự vật hiện tượng đều do duyên mà hình thành; do đó gọi là không (tức không thực thể) hay cũng còn gọi là giả danh hay trung đạo).

6-Ý nghĩa chữ “Sắc” trong “Sắc tức thị Không”. (Sắc uẩn chỉ là tổ hợp vật chất tùy thuộc, duyên khởi vào các hoạt động tinh thần khác (thọ, tưởng, hành, thức) nên nó không có thực thể (không): Sắc tức thị không).

Nhưng, như chúng tôi đã trích dẫn hai đoạn Kinh Đại Niết Bàn ở trên đã chứng tỏ thêm một vấn đề khác. Chúng tôi xin ghi lại:

Này Thiện nam tử! Tánh hư không cũng chẳng ngồi dậy, chẳng đòi uống ăn, chẳng dặn bảo quyến thuộc coi sóc sản nghiệp, cũng không đi, không lại, không sanh diệt, không già trẻ, không mọc lặn, hư bể, giải thoát, ràng buộc, cũng không nói mình, nói người, cũng không hiểu mình hiểu người, chẳng phải ăn, chẳng phải bịnh." (Trang 385, tập 1)

Và:

Phật tánh của chúng sanh chẳng hư, chẳng hoại, chẳng bị kéo, bị bắt, chẳng bị trói, bị buộc. Như trong chúng sanhhư không, vì tất cả chúng sanh đều có hư không chẳng chướng ngại, chúng sanh đều chẳng tự thấy mình có hư không này. Giả sử nếu chúng sanh chẳng có hư không thời không có những sự đến, đi, đứng, ngồi, nằm, chẳng sống chẳng lớn. Do nghĩa này nên trong kinh ta nói tất cả chúng sanh đều có hư không giới, hư không giới đây gọi là hư không. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy. Bực Thập trụ Bồ tát thấy được phần ít như châu kim cương."

Như vậy, Đức Phật xác định trong mỗi chúng sinh đều có hư không giới, tức hư không giới cũng là một thành tố cấu tạo cơ thể của chúng sinh, nhờ hư không ấy mà chúng sinh mới có được sự tăng trưởng, đi, đứng, nằm, ngồi, tức là hoạt động được. Nhưng tính chất của hư không thì không đi, lại; không ăn uống; không sinh diệt, già trẻ hư hoại; không phân biệt mình, người... Vậy hư không giới trong mỗi chúng sinh sẽ đóng vai trò quan trọng nào?

Chúng ta cùng để ý đến hai đoạn Kinh lăng Nghiêm sau:

-"Còn ta (Phật) thì trái với vọng trần, hiệp với Chơn tâm thường trụ bất sanh bất diệt, biến khắp cả pháp giới. Cho nên ta mới được tự tại vô ngại: Ở trong một hiện ra vô lượng, vô lượng hiệp làm một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ; không rời nơi đạo tràng mà hiện khắp cả mười phương thế giới. Thân ta bao trùm mười phương hư không vô tận. Trên đầu một mảy lông hiện ra các cõi nước; ngồi trong hạt bụi, mà chuyển đại pháp luân. Vì ta diệt hết vọng trần, trở lại với bản tâm thanh tịnh trong suốt, nên mới được như vậy! (LN 132-133).

-Khi tâm hoàn toàn thanh tịnh rồi, thì cái trí quang sáng suốt hiện ra. Lúc bấy giờ chơn tâm ông vừa tịch tịnh lại vừa chiếu soi, bao trùm khắp cả mười phương hư không thế giới, lúc bấy giờ ông trở lại xem cảnh vật hiện tiềnthế gian này, cũng như là việc trong chiêm bao. Khi ông được như thế rồi thì nàng Ma Đăng Già ở trong mộng kia làm gì bắt ông được! (LN, 235).

Từ hai đoạn trên cho chúng ta thấy Đức Phật đề cập đến những đặc điểm của một vị đã thành Phật có những đặc điểm hiệp với hư không như sau: Thường trụ bất sanh, bất diệt, biến khắp cả pháp giới; tự tại vô ngại; không rời nơi đạo tràng mà hiện khắp cả mười phương thế giới; thân ta bao trùm mười phương hư không vô tận; trở lại bản tâm thanh tịnh trong suốt; chơn tâm vừa tịch tịnh lại vừa chiếu soi.

Những điều đó cho chúng ta có thể hiểu rằng một hành giả đạt được Đạo Vô Thượng Bồ Đề sẽ nương vào tính hư không để bất sinh bất diệt, để có thể vươn ra lớn cùng với hư không vô tận, cũng như nương vào hư không để có thể thu nhỏ lại như hạt bụi đem để ở trên đầu ngọn lông mà làm công việc lớn: Chuyển Đại Pháp Luân, nhưng không bị ngăn ngại gì cả.

Trong thời đại vi tính và truyền hình ngày nay chúng ta có thể hiểu được “thần thông” của Đức Phật thường nói trong Kinh điển: Đức Phật có thể thu toàn thế giới cùng với mình lại nhỏ như hạt bụi để mình “chuyển Đại Pháp Luân” mà trong đó mọi thế giớicảm tưởng như không hề thay đổi, giống như trên màn hình chiếu từ cảnh cá nhân lớn dần đến nhà cửa, toàn địa phương rồi đến địa cầu, thái dương hệ, thiên hà và lớn dần toàn vũ trụ; Sau đó, chúng được gom lại trong một bong bóngbong bóng đó nhỏ dần, nhỏ dần và gom lại thành một điểm vào giữa màn ảnh, sau cùng thì biến mất hay bằng hạt bụi. Hình ảnh ấy giống như toàn vũ trụ được gom nhỏ trong hạt bụi có thể đem để trên đầu ngọn lông mà những gì trong đó vẫn cảm thấy không hề thay đổi. Còn tại sao khi thành đạo thân Phật lại “bao trùm mười phương hư không vô tận”? Điều ấy chúng ta có thể lấy lại ví dụ của A-Lại-Da-Thức thì sẽ dễ hiểu hơn! Khi A-Lại-Da-Thức còn của một chúng sinh bình thường thì giống như một cái túi để chứa đựng những hạt giống (chủng tử) nhân quả; nhưng khi không còn những nhân xấu khiến mình phải tái sinh để trả quả nữa, tức lúc ấy hành giả đã đạt đến Đạo Bồ Đề thì túi A-lại-Da-Thức sẽ tự tan vỡ đi, và cái Tâm ( bây giờ là “chơn tâm” vì sau khi tu đắc đạo cái “vọng tâm” đã bị diệt) của hành giả sẽ nương theo hư không mà trương lớn lên theo khắp cùng trong hư không vô tận để “trở thành thân Phật”. Thân ấy khi muốn lớn thì tràn khắp hư không; còn muốn nhỏ thì thu nhỏ lại giống như hạt bụi. Sự trương lớn, hay thu nhỏ không bị cái gì ngăn ngại cả (thân vô ngại). Và sự trương lớn hay thu nhỏ đó chỉ cần trong một niệm cho nên câu “chỉ trong một niệm các Đức Phật có thể đi qua khắp “tam thiên đại thiên thế giới” là như vậy!

Nếu nói như thế thì trong “hư không vô tận có rất nhiều Đức Phật ẩn tàng vào nhau”? Đúng thế, cho nên Đức Phật mới thuyết:

“Ở trong một hiện ra vô lượng, vô lượng hiệp làm một, trong lớn hiện nhỏ, trong nhỏ hiện lớn; không rời nơi đạo tràng mà hiện khắp cả mười phương thế giới”.

Đức Phật cũng đề cập đến cảnh viên dung ấy như sau:

Thí như trăm ngàn ngọn đèn, đồng đốt trong một căn nhà, ánh sáng của mỗi ngọn đèn tuy đều chiếu khắp cả nhà, nhưng không có lộn lạo hay lấn diệt lẫn nhau”. (Kinh Viên Giác, Phật Học Phổ Thông khóa VIII, trang 51-52).

Tất cả các vị Phật đều ở trong Hư Không Pháp Giới và cũng được gọi là Niết Bàn như Ngài A-Nan bạch Phật rằng:

-(A Nan) Bạch Thế Tôn! Bồ Đề, Niết Bàn, Chơn Như, Pháp Tánh, Yêm Ma La Thức, Không Như Lai Tạng, và Đại Viên Cảnh Trí, bảy danh từ tuy khác, chớ cũng đồng một quả Phật thanh tịnh thường còn không hoại. (Lăng Nghiêm, PHPT khóa VI-VII, trang 162).

Trong câu này cho chúng ta biết Niết Bàn là ở nơi đâu? Và Niết Bàn là gì? Niết Bàn là một trạng thái thanh tịnh, khắp giáp cả mười phương hư không thế giới, là nơi an trú mà người hành đạo khi đạt được tiến về với Chơn Tâm như đoạn Kinh Lăng Nghiêm ghi như sau:

“Này Phú-Lâu-Na, các ông khi đối với trần cảnh (thế giới, chúng sanh, nghiệp quả) chỉ đừng có khởi vọng niệm phân biệt, thì tham, sân, si, (ba duyên) không khởi. Ba duyên không khởi, thời ba nhơn sát, đạo, dâm chẳng sanh. Lúc bấy giờ anh khùng Diễn-Nhã-Đạt-Đa (mê) ở trong tâm các ông tự hết, mà hết tức là Bồ-Đề (sáng suốt). Khi ấy chơn tâm của ông thanh tịnh sáng suốt tự hiện bày, khắp cả pháp giới, không cần phải cực nhọc khó khăn tu chứng, hay xin cầu nơi ai cả”. (Kinh Lăng Nghiêm, PHPT Khóa VI-VII, trang 143)

Đức Phật nói về Chơn Tâm:

“Nó nhiệm mầu yên lặng, sáng suốt, khắp giáp cả pháp giới” (Lăng Nghiêm, PHPT, trang 110); “Chơn tâm nhiệm mầu vắng lặng mà thường sáng suốt chiếu soi (Bản giác diệu minh, bản giác minh diệu)” (trang 119).

Và ở một đoạn Kinh Tạp-A-hàm, Đức Phật chỉ rõ qua đâu mà chúng ta sẽ tìm được Niết–Bàn:

"Như Lai tuyên bố rằng thế gian, nguồn gốc của thế gian, sự chấm dứt thế giancon đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian đều nằm trong tấm thân một trượng này, cùng với tri giáctư tưởng."

Và Niết-Bàn đối với người hành đạo có hai hình thức:

"Có hai hình thức chứng nghiệm Niết Bànchứng nghiệm Niết Bàn trong lúc còn mang thân ngũ uẩnchứng nghiệm Niết Bàn lúc không còn thân ngũ uẩn nữa.

Nầy chư Tỳ Khưu, chứng nghiệm Niết Bàn trong lúc còn mang thân ngũ uẩn là gì?

Là nơi đây, nầy chư Tỳ Khưu, một thầy tỳ khưu đắc quả A La Hán, đã tận diệt mọi ô nhiễm, đã sống đời thiêng liêng cao thượng, đã làm những việc cần phải làm, đã bỏ gánh nặng, đã thành đạt mục tiêu, đã tận diệt mọi trói buộc của đời sống, một thầy tỳ khưu hiểu biết chơn chánh và đã được giải thoát. Ngũ quan của thầy vẫn còn và vì chưa xa lìa hẳn ngũ quan, thầy còn hưởng những quả lành và chịu những quả dữ. Sự chấm dứt tham, sân, si của thầy tỳ khưu ấy gọi là chứng nghiệm Niết Bàn trong lúc còn mang thân ngũ uẩn.

Nầy chư Tỳ Khưu, chứng nghiệm Niết Bàn trong lúc không còn thân ngũ uẩn là gì?

Nơi đây, nầy chư Tỳ Khưu, một thầy tỳ khưu đắc quả A La Hán...đã được giải thoát. Trong chính kiếp sống ấy thầy không còn thích thú với những cảm giác của thân nữa, thầy mát mẽ. Đó là chứng nghiệm Niết Bàn trong lúc không còn thân ngũ uẩn". (Đức PhậtPhật Pháp, Narada Thera (Phạm Kim Khánh dịch), trang 466).

Niết Bàn trong lúc còn mang thân ngũ uẩn đó là: "Hữu Dư Y Niết Bàn" và "Vô Dư Y Niết Bàn" là Niết Bàn khi không còn thân ngũ uẩn.

Theo như vậy, “Tính Không” trong Đạo Phật không phải là những “cái Không” giả tưởng hay mơ hồ; mà những “Không” ấy để chỉ đến những cái trống rỗng, những cái không có thực chất, những cái “không” và “có” giả tạm. Nhưng “Hư không” mới là nơi “trụ” và “viên dung” của tất cả các đại, và cũng là nơi mà Tâm của từng chúng sinh tu đến Giác Ngộ nhập vào cõi Chơn Tâm nằm trong Chơn Như, Pháp Tánh, Niết Bàn,... hay được gọi đúng hơn là “Không Như Lai Tạng” vậy!

Cho nên “Tính Không” trong Đạo Phật không phải có nghĩa là “Không Có”; mà lại cũng không phải có ý nghĩa mơ hồ chung chung mờ mịt như “Hư Vô” trong Đạo Lão chủ trương, mà “Tính Không” trong Đạo Phật rất là cụ thể và cao trọng nhất mà người hành giả mong muốn để tìm về!

Nguyên Thảo,
11/9/2011
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15518)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13208)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19363)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24628)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15744)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37830)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13479)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13100)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17182)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13205)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17388)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21639)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13222)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14408)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12818)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13657)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28624)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23401)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34384)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28884)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32187)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11329)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12004)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26292)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17378)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14525)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34481)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13113)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12280)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13415)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40515)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26946)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14462)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13257)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13463)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12539)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13154)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12317)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11799)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12576)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17665)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12208)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12755)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18437)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14290)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12997)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11325)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12152)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13467)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10839)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11078)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10290)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28900)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25284)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26854)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25773)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18677)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23040)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34551)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32190)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant