Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dừng Tâm Sinh Diệt

22 Tháng Hai 201506:20(Xem: 8844)
Dừng Tâm Sinh Diệt
DỪNG TÂM SANH DIỆT

HT Thích Nhật Quang
(Thiền Viện Thường Chiếu)


Dung Tam Sinh DietChúng tôi chọn viết đề tài dừng tâm sanh diệt là nhân có một Phật tử than: Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.

Tôi nói: Nếu đạo hữu bắt được những vọng tưởng ấy đem tới đây, tôi quất cho nó mấy roi. Bằng như đạo hữu không bắt được, tôi cũng không biết làm sao hơn. Hòa thượng thường dạy: Vọng tưởng không thật, đừng theo nó thì yên. Ngày xưa một thiền sư Trung Hoa nói với người học trò hỏi đạo thế này: Ma quỷ nào dẫn ông tới đây hỏi đạo?. Ông đệ tử không trả lời được. Thật ra niệm tưởng là gì? Nó là những dấy niệm. Chữ niệm là nhớ nghĩ. Sự nhớ nghĩ thì đa dạng, nó ra sao mình không biết, dài ngắn thế nào không hình dung được. Nó có mặt vào những lúc mình không thích tí nào hết. Lúc nghỉ ngơi, ăn uống, tụng niệm, tọa thiền v.v.. nó cứ trào dâng với đủ thứ hình thức, cái còn lại trong chúng ta sau khi nó tới viếng là phiền não. Bởi vì nó tới quấy rầy choáng hết một khoảng thời gian, sự an tĩnh của chúng ta mất hết. Cho nên nghĩ đến công phu tu hành mình không vui. Như người khách mình không thích tiếp, không muốn tới mà họ cứ tới hoài, quý vị sẽ phiền não chứ gì. Mình muốn nói thẳng: Tôi không thích ông nữa. Nhưng có ai mà dám nói thẳng đâu, nên nó xìu xìu ểnh ểnh, chùng chùng, thẳng thẳng, thành ra phiền não, bất ổn.

Cho nên điều mà ở đây chúng ta cần trao đổicông phu. Chúng ta phải làm sao có được một chút thiền định. Như nghe người nào nói: Sao con cứ bị vọng tưởng quấy rầy hoài, mình biết công phu của vị đó chưa được định. Bây giờ chúng ta phải làm sao để được thiền định? Trong công phu tu hành, nếu mình có thiền định thì trí tuệ phát sinh, bấy giờ vọng tưởng lăng xăng không làm gì được ta. Thật ra chúng tôi cũng còn niệm tưởng, nhưng tôi không quan trọng nó. Nó muốn tới thì tới, muốn đi thì đi, tôi không quan tâm, việc tôi tôi cứ làm. Những lúc nào chúng ta làm chủ được thì nó đứng ngoài cửa ngó thôi, không làm sao động đến ta nổi.

Bây giờ tôi đề nghị quí Phật tử khi vọng tưởng lăng xăng đến mình cứ mặc kệ nó, không phiền, không bận tâm, không nghĩ ngợi gì về nó. Miễn làm sao tâm chúng ta vững, tròn đầy thì tự nhiên vọng tưởng không làm gì được mình. Đó là một cách để chúng ta nuôi dưỡng công phu. Theo lời Phật dạy, người tu thiền mạnh trị vọng tưởng rất dễ. Do sức thiền định của chúng ta yếu nên khó yên ổn, vọng tưởng cứ quấy rầy hoài. Quý vị nghiệm lại xem trong một ngày, sự tu tập của mình cứ loay hoay với ba thứ gì đâu. Cuối cùng chúng ta thấy hôm ấy trôi qua một cách vô lý, mình không làm được gì.

Nghĩ cho cùng không ai bắt chúng ta đi mãi trong luân hồi, mình cũng thừa biết vòng luân hồi luẩn quẩn, lọt vô đó rồi thì cứ loay hoay mãi, không ai gỡ ra được. Đức Phật thị hiện nơi đời chỉ dạy những phương pháp để chúng ta dừng, cắt đứt vòng loay hoay luẩn quẩn đó, nhưng chúng ta làm chưa được. Bởi thực tế hiện tại những niệm tưởng ta chưa dứt được, những lăng xăng dấy niệm vẫn còn. Bây giờ chúng ta phải cố gắng! Nghĩ lại coi ai bắt mình đi trong đó? Tại sao mình đi tu? Thật ra đâu có ai bắt, vọng tưởng cũng không đem dây đem hèo gì tới bắt mình theo nó, tự nhiên mình cứ như vậy. Cuối cùng quả thậtđịnh tuệ của mình yếu quá, nên chúng ta bị loay hoay như vậy.

Bây giờ tập trung tu hành làm sao để chúng tasức mạnh. Sức mạnh bằng trí lực, dũng lực, bằng sự tỉnh táo. Có sức mạnh ấy ta mới trị được những thứ kia. Tu làm sao để không bị luân hồi sanh tử nữa, đừng loay hoay lẩn quẩn nữa, thật là khó ghê lắm. Bởi vì thói quen lăng xăng mình chưa chịu dừng. Nhiều vị nói: Thưa thầy con đến thiền việnnhất định tu đến chết thôi. Tôi bảo: Tốt! Phải có tinh thần, có tâm mãnh liệt như vậy mới tu được, mới xứng đáng. Nhưng ở trong chùa đâu được mười ngày, lại thưa: Thầy ơi! Ở nhà kêu con về. Hỏi về làm gì? Nói không biết nữa, cứ điện thoại lên kêu con về, nhất định phải có mặt con mới giải quyết được. Đó, cứ như vậy thôi. Lần nầy điện thoại kêu về, lần sau tự dưng tới khoảng đó quí vị tự về.

Ngoài ra còn nhiều thứ khác nữa. Chẳng hạn nhức đầu quá phải đi bác sĩ, hổm rày ăn không được phải đi bác sĩ, hai chân đau phải đi bác sĩ, con mắt lem nhem phải đi bác sĩ v.v.. trăm ngàn thứ việc. Như vậy làm sao tập trung được tỉnh lực để yên tu, đạt được định tuệ. Với cuộc diện này, nhìn chung chúng ta yếu thế hơn vọng tưởng. Nghĩ cũng lạ, phải chi mấy thằng vọng tưởng nó to lớn hay hung tợn mạnh mẽ nên mình ngán mình sợ, đằng này không thấy mặt mày nó ra sao, nhưng nó lôi tới đâu là mình theo tới đó, mà chẳng thể làm gì nổi nó.

Bây giờ đối với vọng tưởng chúng ta phải làm gì? Phải khởi lên một sự quyết tâm, một niệm kiên quyết mình không chơi chung với nó, không chấp nhận nó, nó rủ mình đi mình không đi, có điện thoại tới liền cắt đứt v.v.. như vậy mai ra mới có thời gian tu. Tôi nghĩ ngày xưa Bồ tát Sĩ Đạt Ta ở trong khổ hạnh lâm sáu năm, nếu ngài cứ bị triều đình gọi điện thoại về hoài chắc là không thiền định gì được. Không đắc cả những pháp tu của ngoại đạo, hà huốngđịnh tuệ, trí lực của pháp giác ngộ giải thoát. Nhờ Bồ tát Sĩ Đạt Ta kiên quyết một phen qua sông, ngài quyết liệt tăng tiến cho tới thành Phật. Sau khi thành Phật rồi, ở nhà năm lần bảy lượt cho người mời về, chớ không phải gọi bằng điện thoại nha, bấy giờ Phật mới chịu về. Khi về ngài chủ động, chớ không phải bị sắp đặt chỗ này chỗ kia. Đọc lại những đoạn sử này mình thấy thích thú làm sao.

Tin đức Thế Tôn trở về Ca-tỳ-la-vệ, Tịnh Phạn vương và thần dân, hoàng thân quốc thích chuẩn bị một cuộc đón rước thật long trọng. Tuy nhiên Phật không báo trước về lúc nào, đón rước ở đâu, ăn nghỉ ra sao. Triều đình cũng cho người hỏi han tin tức nhưng Phật không nói. Ngài về bất ngờ trong hình ảnh một vị khất sĩ hướng dẫn tăng đoàn đi khất thực từng nhà. Thành ra sự chuẩn bị linh đình của triều đình không dính dáng gì tới Thế Tôn cả. Ngài dẫn đệ tử đi khất thực, khất thực đầy bát rồi về, cứ cơm sẵn đó mà dùng đúng như pháp.

Hình ảnh này cho chúng ta một bài học thật quí báu. Chúng ta đi đâu sắp về là điện thoại báo "Trưa nay nấu cơm nha, thầy đi với mấy chục Phật tử nữa đó. Ra chợ coi cái gì ngon mua về nấu". Do vậy ở nhà phải tính toán đúng giờ, tất bật chuẩn bị đủ thứ. Thấy như bình thường nhưng rõ ràng mình mất chủ động. Đáng lẽ trên đường mình tự do, muốn đi thì đi, muốn ngừng thì ngừng, chừng nào về tới thì tới, không quan trọng việc đặt định ở nhà phải cơm nước, như vậy khoẻ hơn không. Mình đi đứng tự tại, nói làm tự tại, không bị lệ thuộc bởi điều gì cả. Đàng này dính mắc cơ sở, sự sắp đặt... đủ thứ. Nghiệm từ những việc nhỏ rồi tới những việc lớn, sự tu hành vì thế khó giải thoát quá. Rất khó, chớ không phải đơn giản.

Ngày về của đức Thế Tôn ở cung thành Ca-tỳ-la-vệ, bao nhiêu người trọng vọng, đón rước, cả vua Tịnh Phạn cũng thế. Nhưng Thế Tôn thực hành đúng theo nghi luật của một đức Phật. Ngài không để sự thân thương của gia đình, tổ quốc làm trở ngại phép ứng xử của một đức Phật. Người tu chúng ta bây giờ không khéo còn dính mắc hơn ai hết. Như từ đây tôi về Đà Lạt thăm Hòa thượng, vừa tính đi thì mấy chú thị giả biết, liền điện thoại lên Trúc Lâm báo: Bữa nay thầy về đó nha, khoảng mấy giờ đó là tới. Mỗi lần thông tin như vậy, có khi Hòa thượng lo. Ngài trông Ủa! Nghe nói chú đi hồi sáng mà tới chiều mới tới, xe có sao không, đi gặp chuyện gì không... Quý vị thấy, những vướng mắc của mình ảnh hưởng đến chung quanh. Cho nên chúng ta cố gắng làm sao gói gọn lại, tháo gở lần ra, để cho hơi thở, cho sự sống của mình được tự do tự tại một chút.

Bây giờ chúng ta phải định vị lại, định vị cái gì? Định vị chúng ta là một chúng sanh còn trong luân hồi sanh tử hay đã giác ngộ giải thoát? Nghe thầy dạy tất cả chúng sanh đều có tánh giác, ta phải sống được với tánh giác thì mới tự tại, mới giác ngộ giải thoát. Nhưng bây giờ chúng ta biết được tánh giác ấy chưa, sống được với nó chưa, hay chỉ nghe và nói qua danh từ? Với người tu, tôi nghĩ mình phải biết mình. Người xưa dạy chúng ta phải phản quan, phải biết mình như thế nào. Tôi nghĩ trong công phu, sự tỉnh giác mạnh mẽ và sự khiêm cung trên bước đường tu tập sẽ giúp cho hành giả đẩy lùi vọng tưởng một cách có hiệu quả.

Hòa thượng thường động viên chư tăng: Mấy chú phải tỉnh, nghe tiếng kiểng liền ngồi dậy, cuốn mùng liền, dù muỗi mòng gì cũng cuốn lại. Rửa mặt rồi đi tới đi lui, hít thở. Nếu thấy hơi lừ nhừ, uống thêm vài hớp trà rồi đi ngồi thiền. Trong những thời điểm mình thấy mắt không muốn mở ra, chân không muốn đứng lên, dậy cứ ngồi đó không chịu rửa mặt, nếu mình chìu theo nó, thì nó dẫn đi đâu? À, ngồi đó một chút là ngã ra, nằm xuống. Nằm xuống rồi không biết gì nữa. Tới chừng giựt mình thức dậy nghe đâu năm giờ, người ta xả thiền rồi. Như vậy suốt hai tiếng đồng hồ, mình ở trong si mê, tăm tối. Cho nên thiền sư nói hôn trầmma quỷ, quả đúng như vậy. Mình đâu biết gì nữa, nó dẫn đi tuốt luốt không hay. Cũng tại tâm không quyết liệt, xìu xìu ểnh ểnh mà ra nông nổi ấy.

Nếu chúng ta cố gắng, mãnh tỉnh một chút thì sẽ vươn lên, vượt qua những trạng thái đó. Nghiệp tập chúng ta vốn sâu dày mà công đức cạn mỏng, nếu không cố gắng làm sao tu được. Các thiền sư thường nhắc: Ông đợi tới chừng nào mới kết thúc sanh tử? Lúc còn tỉnh táo, có thể kiên quyết, có thể lập định thế này thế khác thì phải cố gắng thực hiện cho bằng được. Chớ đợi tới khi không làm chủ nổi thân này, đầu óc mù mờ, thân thể mệt mỏi thì đâu có tu được nữa. Cho nên chúng ta phải định vị để cố gắng vươn lên, nhất định chúng ta phải thoát ra khỏi con đường trầm luân sanh tử .

Bồ tát Sĩ Đạt Ta khi ngài khổ hạnh triệt để, thân thể gầy còm, không thể tưởng tượng nổi. Trong sách diễn tả, hai ánh mắt của ngài sâu hóm như đáy giếng. Thân chỉ còn một chuỗi xương sống thôi, ngài biết con đường tìm đạo của mình trước đây chưa rốt ráo, chưa viên mãn. Do vậy ngài kiên tâm quyết chí phải đi cho tới viên mãn. Từ đó ngài nhận bát sữa của nàng mục nữ và đi tới dưới cội Bồ-đề, trải cỏ ngồi với một lời thề kiên quyết: Dù thịt nát xương tan, nếu chưa đạt được đạo quả vô thượng thì ta nhất định không rời khỏi chỗ ngồi này. Phải ý chí lẫm liệt như vậy mới có một ngày mai giác ngộ rực rỡ. Chúng ta ngược lại, cứ chấp nhận ngã xuống rồi ngáy lên, tới chừng trời rực sáng là đã năm giờ. Bửa nào rũi ro như vậy, sáng mai nghe đánh bảng ăn cơm, mình tự thấy xấu hỗ làm sao, thấy không xứng đáng tí nào hết. Anh em dậy tu, người nấu cơm chịu nóng, chịu lạnh, dọn lên cực khổ, bây giờ nghe bản mình lên ăn tỉnh bơ. Ngày nào cũng như vậy thì biết thành cái gì?

Đối với tâm sanh diệt, nếu chúng ta dứt được thì làm chủ vấn đề sanh tử. Thật ra chỗ này rất khó nói. Khi Hòa thượng giảng, có người hỏi: Người tu Tịnh độ, lúc lâm chung niệm Phật A Di Đà thì được Phật rước, mình tu thiền tới lúc lâm chung ai rước? Các thiền sư nói đó là lúc tự tại chọn đường mà đi, chứ không ai rước hết. Chỗ nào chúng sanh cần đến độ thì tới độ. Tới như một sứ giả chứ không phải bị nghiệp dẫn. Rõ ràng như vậy, khi niệm lăng xăng dứt được thì sanh tử dứt được. Đi đứng nằm ngồi trong mọi giờ giấc kiểm nghiệm, mình thấy niệm lăng xăng chưa dứt, thì biết vòng luân hồi chưa thể dứt.

Chúng ta muốn dứt niệm lăng xăng khó hay dễ? Rất dễ cũng rất khó. Đừng chạy theo nó thì dễ, còn chạy theo nó thì khó. Hoà thượng dạy chúng ta phải chủ động, đừng để nó chủ động mình, phiền lắm. Chúng ta đều biết vòng luân hồi sanh tử nếu không dừng được thì chúng ta còn khổ. Biết sẽ khổ mà cứ lao tới, đó là người không có trí tuệ. Các thiền sư nói khổ lại thêm khổ. Thành thử bây giờ phải làm sao dừng được lăng xăng. Nghiệm lại quá trình tu tập, đối với những dấy niệm chúng ta còn nhiều hay ít thì đoán được kết quả của mình. Từ đó cố gắng, chứ khỏi cần trông cậy vào ai.

Có một đệ tử đến hỏi thiền sư: Thưa thầy con có Phật tánh không? Thiền sư đáp: Không có. Vị đệ tử ngạc nhiên hỏi lại: Tại sao Phật bảo tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, mà thầy lại nói con chó không có Phật tánh? Thiền sư đáp: Tại vì có mà không dám nhận thì cũng như không có. Quý vị thấy phải vậy không? Mình biết dễ mà tu không được kể như khó chớ gì. Dễ mà khó. Khó nhưng rất dễ. Đây là chỗ ách yếu trong công phu tu hành của chúng ta.

Trong cuộc sống hiện tại, nếu chúng ta không chỉnh đốn công phu, cứ để ngày qua ngày, trôi theo các sự duyên, trong tâm luôn dấy niệm loạn tưởng, thì làm sao tự chủ để đi con đường mình chọn. Thiền sư thì phải làm chủ, không bị nghiẹâp dẫn. Nghiệp là cái gì? Nghiệp là năng lực tạo tác từ thân khẩu ý. Thân làm gì, miệng nói gì, ý nghĩ gì, các thao tác ấy tạo thành năng lực, năng lực đó hình thành nghiệp lực. Nghiệp lực dẫn mình đi thọ báo. Ví dụ chúng ta hay nói lời gì, làm gì, lâu dần thành quen, nó dẫn mình đi theo hướng đó. Rồi ý nghĩ, như xưa nay mình chuyên môn nghĩ xấu thiên hạ, thì ý nghĩ ấy tạo thành năng lực, đẩy mình đi tới chỗ hễ nghĩ là nghĩ xấu thiên hạ.

Người tu phải chủ động ba nghiệp thân, khẩu, ý. Đó là cách chúng ta khống chế năng lực xấu. Được thế ta mới tự tại, còn không khống chế nó, không có năng lực gì hết thì đâu thể tự tại. Nếu muốn trước giờ phút lâm chung tự tại chọn đường đi thì ngay đây ta phải tự tại. Bây giờ mình chưa tự tại nên ngồi nghĩ một hồi thì toát mồ hôi lạnh. Thiền định chưa vững, thầy dạy phải tỉnh mình cũng chưa tỉnh, xìu xìu ểnh ểnh, buổi khuya ai nấy đều dậy ngồi thiền còn mình nằm ngủ. Thói quen xấu chưa dừng được tức là còn bị nghiệp lôi.

Chư huynh đệ nhớ, khi thấy tay chân quờ quạng, hơi thở yếu, ta không còn chủ động được là biết lúc này mình sắp từ giã. Đừng sợ, đừng hoảng hốt thì mới không đi vào các đường dữ. Bằng ngược lại, nghiệp lực sẽ dẫn chúng ta thọ sanh ở những nơi tương ưng. Trong kinh nói rằng người vừa nhắm mắt, tự nhiên thấy trời nổi sấm sét, rồi tiếng hú, tiếng gầm của cọp beo thật ghê gớm, đương sự mất tự chủ. Bấy giờ bên cạnh không có đệ tử, cũng không thân thuộc, không có cha mẹ, hoảng quá rồi chạy lẩn quẩn. Thấy có lùm tre gai nào đó liền tới núp cho cọp beo đừng xơi. Nhưng vừa núp vô, mở mắt ra thấy mang lông đội sừng, chuyển sang đời khác. Nghiệp dẫn chúng ta đi chớp nhoáng như vậy. Nguy hiểm ghê chớ đâu phải chuyện đơn giản. Do vậy cần phải định vị kiểm thấy mình chưa sáng, còn nghiệp nào xấu nhiều thì phải lo tu sửa, đừng để tới lúc sắp lâm chung, không thể tu kịp nữa.

Huynh đệ nghĩ rằng, khi mình lâm chung có những bậc thầy, những huynh đệ đến nói lời khai thị, nếu ???c như thế thì tốt. Giả như không có thì sao? Cho nên ngay trong khi sống, mình luôn nhớ những lời khai thị thì mới đảm bảo lúc lâm chung an ổn. Thầy tổ chúng ta thường dạy, người tu phải quan tâm vào việc chính của mình, không để dính mắc chuyện bên ngoài. Có ông thầy nào dạy đệ tử tu thì cứ tu, nhưng chuyện làm ăn lỗ lã của ai con phải biết dùm không? Không có. Chẳng có thầy nào dạy kỳ vậy. Chỗ này chúng ta chính chắn nghiệm lại, xem mình có làm đúng lời thầy dạy chưa, hay mình còn quan tâm nhiều thứ bên ngoài? Thiù dụ chiều chiều ra ngồi gốc Bồ-đề, thấy xe chạy rần rần, thiệt là sảng sốt. Rồi nghĩ, không biết mấy anh em chạy tới đâu, có chuyện gì không? Nghĩ rồi tưởng tượng, vẽ thêm sự việc. Có một người trong nhóm năm bảy huynh đệ nói chuyện xe đụng ở bên tây bên tàu gì đó. Chuyện vừa dứt thì chuyện xe đụng ở Sài Gòn hay Vũng Tàu được kế tiếp. Hết Sài Gòn, Vũng Tàu tới các tỉnh miền nam rồi miền bắc. Tự nhiên buổi chiều hôm đó xe đụng tùm lum hết. Cuối cùng đứng dậây ngơ ngác, vọng tưởng dẫn cả đám đi nhà thương. Việc người ta chạy báng mạng ngoài đường có dính dáng gì tới mình đâu, mà suốt buổi chiều xúm nhau, cấm đầu vô đó mà tưởng tượng, mà nói thôi là nói. Đó là gì? Là điên đảo vọng tưởng, là không soi xét lại chính mình mà chiếu lộn ra bên ngoài. Thành ra tầm bậy, khiến cho ba nghiệp không thanh tịnh.

Là người tu, chúng ta phải quan tâm vào việc của chính mình ngay bây giờ. Ta đang ngồi đây, làm gì? Đang ngồi tự tại, không làm gì hết. Nhớ luôn quan tâm như vậy, không để niệm lăng xăng phóng ra, thì mới làm chủ được. Còn nếu ngồi đó mà nói chuyện năm trên năm dưới thì tu không biết chừng nào cho xong. Đó là ta không chiếu cố, không chủ động, không xoay lại, không quan tâm chính mình. Việc làm của chúng ta là vừa nghĩ tới chợ Phước Thái liền chặt, nghĩ Sài Gòn chặt, nghĩ Vũng Tàu chặt, nghĩ Đà Lạt cúp luôn. Như vậy mình mới yên. Nếu chúng ta chỉ chuyên tâm chiếu cố việc của mình, đừng chạy ra ngoài, thì ngay đó trí tuệ rực sáng, mình có thể dừng bớt vọng tưởng dễ dàng.

Bây giờ chúng ta có thể đoán biết tại sao mình nhiều vọng tưởng? Tại vì mình cứ nghĩ ngợi, cứ lo ra hoài. Bộ phận đầu não cứ lao lư hoài, từ đó hình thành những dấy niệm, vọng tưởng thế này thế khác. Bây giờ làm sao đừng để như vậy nữa. Đó là điều rất khó nhưng không phải là không làm ???c, nếu chúng ta chịu làm. Hoà thượng dạy niệm vừa dấy lên liền biết, thì cái biết đó là chân tâm. Ngài chỉ thẳng như vậy cho chúng ta tu, nhưng nếu huynh đệ không chịu thực hiện, cứ xìu xìu thì tới lúc bỏ thân này chúng ta sẽ quờ quạn. Cho nên bây giờ phải hạ quyết tâm nỗ lực tu hành.

Chúng ta biết rằng mình đã lang thang trong luân hồi sanh tử nhiều đời kiếp rồi, bây giờ là lúc phải dừng. Biết luân hồi sanh tử khổ, đã nếm cái khổ đó nhiều rồi, bây giờ phải tự ý thức, tự dừng, tự mình làm chủ, đừng để nó kéo lôi lang thang nữa. Như hôm nay, huynh đệ chúng ta đang ngồi lắng nghe cách hành trì tu tập để được tự tại đối với các pháp, không bị luân hồi sanh tử nữa. Đó là một bước tiến. Do đó chúng ta biết cách dừng, biết sợ luân hồi sanh tử thì kết quả sẽ bớt trôi lăn. Như Phật nói: Người tại gia bị gia duyên ràng buộc như gông cùm, biết như vậy rồi quí vị không để cho những thứ đó bận bịu mình nữa. Đó là một cách vươn lên, vùng lên để được giải thoát.

Đã có cách rồi, bây giờ chúng ta phải gì? Phải nỗ lực, phải tinh cần. Vọng tưởng không có hình tướng gì hết, nhưng nó có sự hấp dẫn, vì vậy mình dễ lao theo. Bây giờ ta phải giành quyền làm chủ. Làm chủ ban ngày, làm chủ ban đêm, làm chủ luôn cả trong giấc ngủ và tất cả các sinh hoạt của mình. Dĩ nhiên thời gian đầu chưa quen ta bị rối loạn, không được như ý, nhưng không nản chí cứ tiếp tục thực hành như thế, dần dần ta sẽ làm được. Trước tiên chúng ta dừng được một số niệm tưởng lăng xăng, từ từ hạ quyết tâm phải chiến thắng toàn bộ bọn chúng.

Thiền sư Phù Dung thường nhắc nhở: Các ông đi trong luân hồi sanh tử đã nhiều lần, bây giờ cố gắng ngay trong đời này phải giải quyết cho xong, đừng đi theo lối mòn đó nữa, chỉ toàn khổ ách mà thôi. Biết khổ thì đừng lao tới, phải dừng, phải tự khắc phục lấy. Các ông hạ thủ công phu giống như người trồng hoa trên đá. Chúng ta luôn quan tâm, xét lại việc bổn phận của mình, dù khó khăn bao nhiêu cũng cố gắng, nhất định sẽ thành công. Tóm lại, làm sao dứt được luân hồi sanh tử, đó là điều cốt yếu nhất của người tu.

Muốn dứt luân hồi sanh tử phải làm chủ được những dấy niệm, đừng để nó chi phối mình. Làm chủ cách nào đây? Quí vị sắp đặt trong nhà có tấm bảng nhỏ, trên đó ghi rõ năm giờ sáng thức dậy ngồi thiền, sáu giờ ăn cơm, bảy giờ làm việc, mười một giờ nghỉ... sắp cho tới năm giờ chiều. Đã ghi trên đó thế nào thì làm y như vậy. được thế là tập trung, là có sức mạnh. Chúng ta muốn tu đạt kết quả tốt thì phải đủ bản lĩnh giải quyết việc của mình, không để lơ lững nữa. Ví dụ năm giờ là giờ tọa thiền, gần năm giờ có bà bạn điện thoại tới nói: Chị ơi! Bữa nay mình đi chơi chỗ này vui lắm. Nếu quý vị có quyết tâm trong việc tu hành, sẽ trả lời: Cảm ơn chị, năm giờ em có việc. Cắt một cái rụp, khỏi giải thích gì hết. Làm được như vậy nhất định quý vị có sức mạnh, nhất định sẽ thành công.

Việc tu hành hằng ngày phải cương quyết đối với các dấy niệm, các vọng tưởng. Chúng ta cố gắng chủ trì nó, đừng để nó dẫn mình đi. Trong những việc đời thường, ta làm một cách an ổn, không để phiền não len vô, đó là sự định tỉnh thường nhật. Sự định tỉnh nếu được thực tập thường xuyên sẽ có sức mạnh phi thường. Như khi chúng ta ngồi thiền được định, đó là chuyện dĩ nhiên. Nhưng xả thiền ra mình còn định hay không, mới là chuyện đáng nói. Người có sức định tỉnh sâu, trí tuệ sáng suốt, thấy rõ các sự kiện trước mắt trong mọi thời điểm, mọi sinh hoạt. Đó mới là nội lực chắc thực.

Hành giả tu thiền không được ai đón như hành giả tu Tịnh độ, thì mình phải tự tại mà đi. Nếu không, khi thấy mưa, gió, sấm chớp, tiếng la hét, kêu thương của người thân v.v làm mình không yên. Những thứ đó sẽ kéo lôi mình vào các đường xấu. Như vị nào trước phút lâm chung mà sân thì đi vào cõi ngạ quỷ. Thường thường khi gần chết, người ta nhớ lại đủ thứ chuyện cũ. Có người nhớ lại rồi sân, hoặc thân thể đau nhức quá cũng sân. Nhiều người đau quá không thể niệm Phật mà kêu trời, vì họ không làm chủ được thân đau nhức. Chúng ta đôi khi cũng vậy, vì hằng ngày không quen làm chủ nên tới lúc hấp hối, cận tử nghiệp quay mình. Bây giờ phương pháp tu hành chúng ta đã nắm, chỉ còn tích cực gầy dựng năng lực trong công phu, để đảm bảo có thể chủ động được trước phút lâm chung. Lúc này phải có sức mạnh mới cắt được dòng cận tử nghiệp.

Các thiền sư Việt Nam luôn dạy chúng ta phản quan tự kỷ, đó là việc bổn phận của mình. Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn. Chính mỗi người nghiệm xem coi mình làm chủ được chưa, rồi những huynh đệ chung quanh có làm chủ được không? Trong huynh đệ chúng ta có người làm chủ được, đó là tin vui, giúp mình tin tưởng rồi tất cả sẽ làm chủ được hết. Chúng ta tu thiền, Tổ bảo phải được định, có trí tuệ, chúng ta cố gắng tu cho ???c như vậy. Chớ biểu được định, chúng ta không định, không định làm sao có tuệ, mà không có định tuệ thì đâu làm chủ được.

Trong số các Phật tử đây, có nhiều vị đâu phải mới đi chùa ngày hôm nay. Tôi biết quý vị đã đi chùa nhiều năm tháng rồi, đã học Phật, đã có tâm tu hành mong cầu giác ngộ giải thoát, nhưng tại sao không được kết quả tốt. Đó là vấn đề quí vị phải suy nghĩ. Các thiền sư nói: Mỗi chúng ta đều có chân tâm, có bản lai diện mục, có Phật tính. Phật tính là gì? Là chất Phật thật. Có sẵn tánh Phật chúng ta mới tu thành Phật được. Nếu không có tánh Phật mình tu không thành Phật đâu. Chúng ta có sẵn nhưng vì bỏ quên, ngược xuôi theo trần cảnh bên ngoài nên lắm lem. Bây giờ cố gắng xoay về, nhận lại tánh Phật ấy thì hết khổ, hết lang thang trôi dạt trong sáu nẻo luân hồi. Đó là chúng ta biết tu.

Thiền sư Hoàng Bá có lời răn nhắc thế này:

Muốn thoát trần lao việc phi thường,
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường,
Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt,
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.

Mình phải là người gìn giữ lập trường. Bởi vì muốn tu, muốn được hết khổ, được giải thoát thì phải giữ vững lập trường. Nhưng chỉ giữ vững lập trường không đủ chưa? Chưa. Ví chẳng một phen xương lạnh buốt, nghĩa là nếu chúng ta không có công phu, không có sự gắng gổ, thì không thể nào giác ngộ. Câu chót ngài nói: Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương, tức là không có công phu chắc thực thì trí tuệ không sáng suốt, không nhận ra được tánh Phật sẵn có nơi mình.

Trên đường tu, chư huynh đệ chúng ta hữu duyên kết được chủng Phật và ít nhiều gì chúng ta đã có một quá trình tu tập. Ngày hôm nay mình nhận ra lẽ chân ngụy là đã khá lắm rồi, bây giờ chỉ cần cương quyết lên, nỗ lực công phu thấu xương thấu tuỷ thì lo gì không có ngày đạt đạo. Kính chúc toàn thể chư huynh đệ dừng được tâm sanh diệt của mình, để rồi tất cả chúng ta tích cực bảo vệ sự tu tập của mình đạt được kết quả viên mãn, vĩnh viễn an vui, tự tại.

HT. T.N.Q

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8010)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7738)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6953)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13821)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7552)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9311)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7846)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7762)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7340)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7737)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7471)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8671)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 11078)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15431)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19205)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14899)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8836)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8831)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14652)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15280)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8533)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 10979)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11331)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8716)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9075)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19772)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24668)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8814)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9141)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10810)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 9014)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7919)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8804)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8299)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7312)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 11139)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7381)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8286)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17644)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44210)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45488)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 45056)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10627)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8564)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7565)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7586)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7375)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12109)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 7924)
Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa?
(Xem: 8422)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9175)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 8108)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8907)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 8012)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8183)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8686)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16346)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
(Xem: 7148)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
(Xem: 6935)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
(Xem: 9641)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant