Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bảo Vệ Chánh Pháp

22 Tháng Hai 201506:00(Xem: 9115)
Bảo Vệ Chánh Pháp
BẢO VỆ CHÁNH PHÁP

Chân Thường


Bảo Vệ Chánh Pháp1- Hầu hết những nhà nghiên cứu kinh điển Phật giáo đều công nhận rằng bản kinh Phạm Võng (Brahmajala Sutta) là một trong những văn bản Phật học quan trọng vào bậc nhất của toàn bộ hệ thống văn học Phật giáo, bất kể tông phái hay dòng truyền thừa. Quả thật, kinh Phạm Võng – được các dịch giả phương Tây chuyển ra tiếng Anh là The Perfect Net, Tấm Lưới Toàn Hảo – chính là bản tóm lược đầy đủ một cách có hệ thống được trình bày hết sức khoa học về mọi luận điểm căn bản của tư tưởng giới Ấn Độ thời Đức Phật. Bản Việt dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu chỉ trong phạm vi 13.000 từ đã thuật lại toàn bộ những ý kiến chủ đạo của các vị luận sư thời bấy giờ đối với những vấn đề luôn luôn làm con người băn khoăn về vũ trụ, về nhân sinh, về hiện tượng, về bản chất… Toàn thể những luận điểm ấy không ra ngoài những chủ trương như thường kiến hay đoạn kiến, hữu biên hay vô biên, hữu nhân hay vô nhân, ngẫu nhiên hay quyết định… Không chỉ tư tưởng giới cổ Ấn Độ, mà đến tận ngày nay, 26 thế kỷ đã trôi qua, hầu như những vấn đề tương tự vẫn khiến con người phải loay hoay với những câu hỏi và những lời giải đáp chưa ra khỏi nội dung kinh Phạm Võng; trong đó, những kiến giải thời cổ đã bị Đức Phật liệt vào hạng tà kiến. Có thể thấy giải thưởng Nobel Vật lý năm 2011 được trao cho những công trình nhằm xác định vũ trụ đang tiếp tục giãn nở cũng thể hiện sự loay hoay của tư tưởng con người về những vấn đềĐức Phật đã giải quyết từ thế kỷ thứ năm trước Tây lịch. Nói lên điều này không phải để ca ngợi kinh Phạm Võng, mà để thấy rằng kinh Phạm Võng là một trong những bản kinh không thể bị bỏ qua khi cần thảo luận về các vấn đề Phật học. Riêng đối với vấn đề bảo vệ Chánh pháp, điều quan trọng không nằm ở nội dung chính của kinh Phạm Võng, mà nằm ở bối cảnh khiến Đức Phật đã tuyên thuyết nội dung Phạm Võng, những điều được thuật lại ngay ở đầu bản kinh, liên quan đến thái độ của người con Phật trước những lời khen tiếng chê đối với Đức Phật, đối với giáo pháp của Ngài, và đối với Tăng đoàn do Ngài đã xây dựng.

2. Kinh Phạm Võng thuật rằng khi Đức Phật cùng khoảng 500 vị Tỳ-kheo đi trên đường từ Rajagaha đến Nalanda thì có hai thầy trò của một vị Bà-la-môn đi chung đường. Suốt dọc đường, vị Bà-la-môn ấy kiếm hết mọi lời lẽ để hủy báng Đức Phật, hủy báng giáo pháp của Đức Phật, và hủy báng Tăng đoàn do Đức Phật đã xây dựng. Trả lời thầy của mình, người đệ tử của vị Bà-la-môn ấy cũng kiếm hết mọi lời lẽ để tán dương Đức Phật, giáo pháp, và Tăng đoàn của Ngài. Vì họ cùng đi chung đường với các Tỳ-kheo, thái độcâu chuyện của họ không qua khỏi cặp mắt và đôi tai của chư Tỳ-kheo. Đêm xuống, Đức Phật cùng các Tỳ-kheo đến nghỉ tại một hành cung của nhà vua; hai thầy trò Bà-la-môn kia cũng đến nghỉ ở đấy. Tại chỗ nghỉ, hai thầy trò họ tiếp tục cuộc nói chuyện, cũng với thái độ như lúc trên đường. Khi đêm vừa tàn, chư Tỳ-kheo thức sớm, đến tại hội trường, thảo luận với nhau về thái độ của hai thầy trò Bà-la-môn. Có lẽ đã có những vị cảm thấy vui mừng trước những lời tán dương và cũng có những vị bực tức trước những lời hủy báng. Giữa lúc chư Tỳ-kheo còn bàn luận thì Đức Phật cũng đến tại hội trường. Sau khi hỏi để biết rõ nội dung thảo luận của chư Tỳ-kheo, Đức Phật dạy,

Này các Tỷ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, các ngươi chớ có vì vậy sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn. Này các Tỷ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, và nếu các ngươi sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn, thời như vậy sẽ có hại cho các ngươi”.…. “… khi có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, các ngươi phải nói rõ những điểm không đúng sự thật là không đúng sự thật: ‘Như thế này, điểm này không đúng sự thật; như thế này, điểm này không chính xác; việc này không có giữa chúng tôi; việc này không xảy ra giữa chúng tôi’”1 và “Này các Tỷ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp, hay tán thán Tăng, thời các ngươi không nên hoan hỷ, vui mừng, tâm không nên thích thú. Này các Tỷ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp hay tán thán Tăng, mà nếu các ngươi hoan hỷ, vui mừngthích thú thời sẽ có hại cho các ngươi. Này các Tỷ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp hay tán thán Tăng, thời các ngươi hãy công nhận những gì đúng sự thật là đúng sự thật: ‘Như thế này, điểm này đúng sự thật, như thế này, điểm này chính xác, việc này có giữa chúng tôi, việc này đã xảy ra giữa chúng tôi’1.

Tiếp theo, Đức Phật mới giải thích rõ những gì khiến kẻ phàm phu có thể vì thế mà tán thán Đức Phật; và để làm rõ những điều ưu việt trong giáo pháp của bậc Đạo sưĐức Phật đã tổng kết những tà kiến của toàn thể tư tưởng giới đương thời, điều được thể hiện trong nội dung chính của kinh Phạm Võng.

3 Vài năm trở lại đây, Phật giáo ngày càng nhận được sự trân trọng của xã hội và nhất là của hệ thống chính trị đương đại. Gần đây nhất, trong cuộc Đại lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam được tổ chức tại Sóc Sơn ngày 7-11-2011, vị đại diện cho Chính phủ đã trang nghiêm đảnh lễ trước ảnh tượng Đức Phậtthành tâm niệm hồng danh Đức Bổn Sư trước sự cảm kích và trân trọng không chỉ của những người có mặt trong buổi lễ mà còn của tất cả những khán giả may mắn theo dõi đầy đủ trên màn ảnh truyền hình trực tiếp. Điều đó cho thấy tư tưởng Phật giáo đang ngày càng củng cố được chỗ đứng trong xã hội Việt Nam hiện đại sau một thời kỳ dài bị hiểu lầm. Đó có thể là kết quả của những nỗ lực thể hiện giáo pháp của Đức Phật mà người Phật tử Việt Nam đã kiên trì thực hiện suốt mấy chục năm qua. Đó cũng có thể là điều tất nhiên, vì tư tưởng Phật giáo vốn là một thành tố không thể tách rời trong tư tưởng văn hóa truyền thống của dân tộc; cho nên khi xã hội Việt Nam hướng tới an lạc và hòa bình thì việc xiển dương và phổ biến tư tưởng Phật giáo là điều cần thiết bởi lẽ tư tưởng Phật giáotư tưởng hòa bình, thái độ Phật giáothái độ khoan dung, quan điểm Phật giáoquan điểm nhân bản, quan điểm “nhất thiết duy tâm tạo” mà tâm ở đây rõ ràng là tâm chúng sinhchúng sinhtrạng thái thích hợp nhất với việc xây dựng một xã hội an lạc chính là con người. Tuy nhiên, hướng tâm đến lời dạy của Đức Phật trong kinh Phạm Võng, trước thái độ trân trọng đó, người Phật tử Việt Nam cũng không nên hoan hỷ, vui mừng, hay sinh tâm thích thú; mà càng thấy cần phải sống đúng với những lời dạy của Đức Bổn Sư, để tư tưởng Phật giáo thật sự tác động tích cực hơn đến xã hội, từ việc nhỏ đến việc lớn. Có lẽ thái độ thích hợp nhất của người Phật tử Việt Nam là, thấy Phật giáo được xã hội trân trọng, càng thêm trân trọng xã hội.

4 Nhưng cũng vài năm gần đây, thỉnh thoảng lại thấy xuất hiện một số hiện tượng bị coi là mang tính bài bác hay biếm nhẽ Phật giáo; cũng có cả những hiện tượng vận động quần chúng Phật tử bỏ đạo để tìm đến một chỗ dựa tâm linh nơi các truyền thống tôn giáo hay tín ngưỡng khác. Cũng đã có những ý kiến bình luận các hiện tượng ấy, xuất phát từ người Phật tử hoặc từ các vị chức sắc Phật giáo. Có những ý kiến ôn hòa nhưng cũng không thiếu những lời lẽ thể hiện sự bực tức. Đâu đó đã có những chỉ trích việc giáo phái nào đó tìm cách khuyến dụ người Phật tử Việt Nam cải đạo. Khi một vài nhóm người sử dụng các hình tượng liên quan đến Phật giáo trong việc quảng cáo hay tiếp thị, cũng đã có những ý kiến phê bác khá nặng nề; chẳng hạn, việc một cơ sở kinh doanh bia rượu nào đó sử dụng hình ảnh Đức Phật Di Lặc trên nhãn bia, một quán bar nào đó lấy tên The Funky Buddha Bar…

5 Việt Nam hiện nay đang xây dựng một xã hội dân chủ. Đất nước Việt Nam là một cộng đồng đa dân tộc. Người Việt Nam theo nhiều tôn giáo khác nhau.
Phật giáo được xã hội trân trọng thì cũng chỉ là một thành tố của cả cộng đồng dân tộc. Trong mọi xã hội, luôn có những con người thật sự văn minh, biết trân trọng những giá trị khác biệt với những giá trị mà mình theo đuổi, biết đối xử với những người có ý kiến khác biệt với mình bằng lòng khoan dung; nhưng cũng không thiếu những con người hẹp hòi, thiếu một nền tảng văn hóa, chưa hòa nhập được với tinh thần đa tạp của một cộng đồng đa dân tộc. Những người ấy có thể hằn học trước sự kiện Phật giáo đang được xã hội quan tâm, có thể do thiếu hiểu biết, có thể do có khả năng hài hước quá cao, có thể bị xuy động bởi một nhãn quan thiển cận, có thể không ý thức được việc rằng mình làm là thể hiện một trình độ bán khai về văn minh, có thể chỉ biết đến mình và đoàn thể của mình mà không biết đến người khác và đoàn thể của người khác… đã có những hành vi hay thái độ thiếu tế nhị, kể cả là thật sự ác ý. Tuy nhiên, không vì vậy mà người Phật tử cần phải bày tỏ sự bực tức của mình, đúng như lời Phật dạy trong kinh Phạm Võng, “… nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, các ngươi chớ có vì vậy sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn. Thay vào đó, thái độ đúng của người Phật tử có lẽ là phải củng cố hơn nữa bản lĩnh nhẫn nhục và tâm thái khoan dung của mình, đồng thời xem lại mình đã thật sự xứng đáng với sự trân trọng của xã hội hay chưa, nếu chưa, phải cố gắng làm thế nào cho xứng với sự trân trọng ấy; được như thế, sau đó, hẳn là những ai chưa trân trọng đúng mực đối với Phật giáo phải nghĩ lại, nhưng đó cũng không phải là điều mà người Phật tử phải quan tâm.

6 Ở một góc độ nào đó, đúng là người Phật tử Việt Nam hết sức cần tự nhìn lại mình. Đã có những khẳng định cho rằng khi Phật giáo được quảng bá trong một xã hội nào đó, tư tưởng hiền thiện của đạo Phật sẽ tác động đến xã hội ấy, khiến con người trong xã hội ấy sống với nhau hòa hợp hơn, thuần phong mỹ tục nơi đó được phát triển hơn. Nhiều Phật tử Việt Nam vẫn tự hào rằng Phật giáo đã đến với dân tộc này từ hai ngàn năm qua và suốt thời gian ấy luôn đồng hành cùng dân tộc. Trong vài chục năm trở lại đây, các phong trào xây chùa dựng tượng đúc chuông được thực hiện đều khắp; số lượng kinh sách, băng đĩa có nội dung Phật học được phát hành nhiều hơn bao giờ hết; những cuộc hành hương chiêm bái Phật tích trong và ngoài nước được tổ chức quy mô; những cuộc lễ lạt, rước xách tốn kém được tiến hành với sự tham dự của hàng chục ngàn đến hàng trăm ngàn người. Thế nhưng có phải xã hội Việt Nam đã từ hòa hơn, đã phát triển được thuần phong mỹ tục, đã bảo vệ và phát triển được về mặt văn hóa? Người ta vẫn thấy không ít chùa chiền Tăng sĩ khuyến khích các hoạt động mang tính cách mê tín dị đoan như đốt vàng mã, xem xăm quẻ, bói toán, lên đồng, cầu hồn. Chưa kể nội dung Phật học trong các sách báo băng đĩa phát hành tràn lan không qua hiệu đính của cơ quan thực sự có thẩm quyền về Phật học, đã làm rộ lên những nghi vấn về tính trí tuệ của đạo Phật. Trong xã hội, những chuyện đau lòng về hiếu đạo, về sự vô cảm, về thái độ nhẫn tâm, về tính độc ác của con người, hiện tượng sa đọa chẳng những của giới trẻ mà cả của người trưởng thành và quan chức… hình như không thiếu.

7 Giáo pháp của Đức Phật vô cùng rộng lớn và có tới tám vạn bốn ngàn cửa để vào. Tuy nhiên, ở tầm vóc của người Phật tử tại gia, việc giữ được đủ năm giớithực hành mười điều thiện hàng ngày cũng không phải là dễ dàng; và chẳng phải ai cũng dám khẳng định mình không hổ thẹn khi đứng trước tượng Đức Bổn Sư. Thế nhưng người Phật tửtín tâm sẽ không vì thế mà thoái thất bồ-đề tâm của mình; vì người ấy biết rằng mình hoàn toàn có khả năng mỗi ngày mỗi sửa chữa chút ít, với kiên tâm trì chí thì cũng sẽ có lúc đặt được chân vào dòng Thánh. Việc tự điều chỉnh hàng ngày mọi hành vi thân khẩu ý của mình chính là việc bảo vệ Chánh pháp một cách tích cực nhất của người Phật tử tại gia; chứ không cần bảo vệ Chánh pháp bằng việc phê bác những người thiếu thiện chí, biếm nhẽ đạo Phật; hoặc tìm cách đối phó với những khuyến dụ cải đạo đến từ các tôn giáo khác. Trong tập tiểu luận What Makes You Not a Buddhist? của ngài Dzongsar Jamyang Khyentse2 có một câu rất đáng chú ý rằng, “… là một Phật tử bạn không có nhiệm vụ hay bổn phận phải cải đạo phần còn lại của thế giới sang đạo Phật”. Quả thật, giáo pháp của Đức Phật không cần ai bảo vệ, vì tất cả những lý thuyết căn bản của Phật giáo không phải là vật sáng tạo của Đức Phật mà là những luật tắc thường hằng trong cõi đời được Đức Phật phát hiện với sự truy vấn nghiêm ngặt và miên mật của Ngài. Đó là những sự thật luôn luôn có sẵn trong trời đất chẳng ai có thể cướp đoạt hay xóa bỏ được mà cần phải bảo vệ. Điều cần bảo vệ chính là cái tâm của người con Phật, biết kiên trì thực hành những lời Phật dạy để đem lại an lạc cho chính mình và những người chung quanh mình trên tinh thần tôn trọng những giá trị của người khác.

Trong mùa Phật thành đạo, người Phật tửtín tâm càng phải ghi nhớ những lời dặn dò của Phật trước khi Đức Bổn Sư vào Niết-bàn rằng, Này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy, các ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để cho phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người? Chính là Bốn Niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Thần túc, Năm căn, Năm lực, Bảy Bồ-đề phần, Tám Thánh đạo phần. Này các Tỷ- kheo, chính những pháp này do Ta chứng ngộ và giảng dạy, mà các ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng của đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người3. Đó mới thật là bảo vệ Chánh pháp.

Chú Thích

1. Kinh Phạm Võng, bản kinh số 1 trong tuyển tập Kinh Trường Bộ tập I, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch.

2. Tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt với tựa đề“Thế nào là phật tử”, dịch giả Trần Tuấn Mẫn và Nguyễn Thị Tú Oanh, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành, quý IV năm 2011.

3. Kinh Đi t Niết-Bàn, bản kinh cuối cùng của tuyển tập Kinh Trường Bộ tập I, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch.


Chân Thường
(TC. Văn Hóa Phật Giáo)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8790)
Sinh thuận, tử an là một phước báo lớn của con người. Một khi chưa biết nghiệp duyên của mình sẽ chết bình an hay bất an thì hãy cố gắng tu tập các thiện pháp.
(Xem: 8490)
Bản Chất của Hạnh Phúc được trích từ tác phẩm Nghệ Thuật Sống Hạnh Phúc: Cẩm Nang cho Đời Sống, một quyển sách căn cứ trên sự mở rộng những đối thoại giửa Đức Đạt Lai Lạt MaBác sĩ Howard C. Cutter, một nhà tâm lý trị liệu phương Tây.
(Xem: 8023)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7781)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6978)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13849)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7580)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9343)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7888)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7832)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7367)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7766)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7483)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8693)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 11104)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15494)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19285)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14971)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8855)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8875)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14722)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15329)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8572)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 11038)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11383)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8763)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9131)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19848)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24733)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8841)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9158)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10855)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 9048)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7953)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8844)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8342)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7350)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 11190)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7435)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8302)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17750)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44265)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45540)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 45117)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10677)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8602)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7608)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7610)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7402)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12146)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 7965)
Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa?
(Xem: 8451)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9207)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 8139)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8925)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 8047)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8213)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8713)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16385)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
(Xem: 7161)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant