Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vấn Đề Vô Ngã Trong Đạo Phật

09 Tháng Sáu 201407:30(Xem: 9304)
Vấn Đề Vô Ngã Trong Đạo Phật

VẤN ĐỀ VÔ NGÃ TRONG ĐẠO PHẬT

Nguyên Thảo


"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu. Nhưng Vô Ngã lại là vấn đề quan trọng trong giáo lý của Đạo Phật. Tại sao Đạo Phật lại chủ trương "Vô Ngã"?

Nếu nói Đức Phật chủ trương "Vô ngã" thì quả thật tội nghiệp cho Đức Phật không biết là ngần nào! Đã nhiều lần trong các Kinh điển Đức Phật thường nhắc đến "các Đức Phật trong ba đời cũng đều hộ trì như vậy". Đức Phật nói điều đó là muốn cho chúng sinh biết rằng con đường tiến đến quả vị Phật là con đường tự nhiên và tất yếu phải đi qua những giai đoạn như thế. Con đường tu và giác ngộ nó không khác trên căn bản, nhưng tùy theo tâm tính, cơ thể "bẩm sinh" mà mỗi con người thực hành một cách có khác, cho nên mỗi con người, mỗi chúng sinh gần như có mỗi một pháp môn khác nhau.

Chúng ta cũng cần lưu ý rằng Đức Phật chỉ tự xưng là "Đạo sư" mà không là Giáo chủ, cũng không bắt người khác phải theo ta, ngay cả giáo hội cũng không có một điều lệ, lời răn nào để o ép một ai. Tất cả tin và theo chỉ là "tự nguyện". Tại sao như vậy? Đức Phật đã từng là một con người như bao nhiêu người khác. Ngài có nhiều tư lự, suy nghĩ về cuộc sống trần thế với sanh, lão, bệnh, tử; và Ngài đã từ bỏ ngôi vị giàu sang phú quý, vợ đẹp con thơ để đi tìm đạo. Ngài cũng đã không thỏa mãn với những gì mà Ngài học được từ những vị danh sư; Ngài cũng thực hành pháp khổ hạnh. Nhưng cuối cùng do quyết tâm của chính mình, Ngài đã ngộ được đạo dưới cội Bồ đề. Và từ đó, Ngài nói về những chân lý, phương pháp mà Ngài đã cảm nhận được để hướng dẫn cho con người làm theo cách đúng hầu tìm đến được sự Giác ngộ, tìm về với Chơn tâm của chính mình; cho nên Ngài chỉ là một Đạo sư, người chỉ đường cho người khác chứ không là một giáo chủ đầy quyền uy và ban phép cho người khác. Còn cái "Chân lý" mà Ngài truyền đạt qua "cái biết" của tri thức, "cái thấy" của Phật nhãn sau khi thành đạo Ngài gọi đó là chân lý của giác ngộ. Đạo của Ngài truyền bá cho chúng sinh, con người là Đạo Giác Ngộ (Phật).

Nếu thông thường chúng ta cứ gọi là Đạo Phật thì chúng ta không thể nhận thức được trọn vẹn cái ý nghĩa của đạo; mà khi chúng ta gọi là Đạo Giác Ngộ để thay thế chữ Phật thì chúng ta mới thấy được cái ý trọn vẹn: Vì với Giác ngộ ta mới thấy là ta không bị mê muội tin theo một tín điều; với giác ngộ ta mới thấy cái sáng suốt của lý trí chúng ta khi chúng ta đến với giáo lý đạo Phật; và ta tin theo cũng từ trong nhận thức của lý trí. Cho nên, những ai tin theo giáo lý đạo Phật một cách thiếu nhận thức của lý trí thì hãy còn thiếu sót khá nhiều. Đó là tính chất rất khoa học trong đạo Phật hay nói một cách khác "Giáo lý đạo Phật không làm cho tín đồ phải mê muội tin theo, hoặc làm cho tín đồ phải mù quáng mà đâm ra cuồng tín hoặc tin mà thiếu nhận thức".

Trong "Phật học từ điển" của Đoàn Trung Còn đã ghi:

Phật: Bouddha (scr).-L' Illuminé (fr.) Cũng đọc: Bụt. Đọc trọn: Phật đà (Bouddha). Phật là tiếng Phạn, dịch nghĩa: Giác giả (Người Sáng-suốt). Ấy là tiếng để xưng bực Viên giác (Giác ngộ hoàn toàn). Phật, Phật đà, tức là người đã tự giác, lại giác ngộ cho chúng sanh, và hai cái hạnh tự giácgiác tha ấy ngài đã làm trọn vẹn rồi. (Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn).

Con đườngĐức Phật Thích Ca đã chỉ trong Đạo Phật không phải là con đường tin để được giải thoát mà là con đường thực hành để đến được "bờ giác", đến sự giác ngộ. Sau khoảng hơn 45 năm hành đạotùy theo căn cơ của từng chúng sinh hay từng nhóm mà Ngài đã thuyết khác nhau. Vì thế mà có nhiều bộ Kinh được ra đời, nhưng chung quy lại "Vì trình độ của chúng sanh có sai khác, nên có các quả thánh hiền sai khác, chứ không phải Phật pháp có sai khác." (Kinh Kim Cang). Mặc dù vậy, Đức Phật cũng nhắc nhỡ rằng: "Ta cũng như người dùng ngón tay chỉ mặt trăng, các ngươi phải nhơn ngón tay mà xem mặt trăng. Nếu chấp ngón tay cho là mặt trăng, thì chẳng những không thấy được mặt trăng, mà cũng không biết luôn ngón tay" (Kinh Lăng Nghiêm) . Những kinh điển, giáo lý mà Ngài rao giảng hoặc đã nói ra chẳng qua là phương tiện để chỉ đường, hướng dẫn cho chúng sinh theo đó mà tu hành để đạt đến giải thoát, chứ không phải để nghiên cứu. Nhưng thông thường vì kinh điển của Ngài nói quá cao xa, do đó mà chúng sinh đã phải nghiên cứu thật nhiều hầu hiểu rõ hơn để tìm được con đường tu tập cho đúng. Vô hình chung là chúng ta mãi mê nghiên cứu ngón tay hơn là mục đích chính: Nhìn để thấy được mặt trăng. Và cũng do nơi nghiên cứuphương pháp tu có sai biệt từ hoàn cảnh, môi trường, thời tiết, khí hậu... mà người ta đã phân biệt tiểu thừa, đại thừa; thiền với tịnh; phương pháp của ta hay, của người thì dở...Người ta đã quên rằng Đức Phật từng vạch rõ: Chính từ cái "ngã" và với "cái tâm phân biệt" ấy mà chúng sinh đã rời cõi Chân như để đi vào cõi luân hồi; bây giờ người ta lại hãy còn vẩn vơ về hai chữ "Vô minh".

Cõi Chơn như là một tên gọi khác của Niết bàn, hay còn gọi là Không Như Lai Tạng, Đại Viên Cảnh Trí, Yêm Ma La Thức, Bồ Đề, Pháp Tánh... Nhưng đó chỉ là những danh xưng cùng chỉ về một cảnh giới của người giác ngộ đã đạt được tùy theo khía cạnh của từng đối tượng tu tập, hoặc nghiên cứu.

Nói như vậy, tức là Đức Phật không chủ trương "Vô ngã" mà chính trong tự thể của từng chúng sinh nó đã là vô ngã. Mà chỉ với Vô ngã, chúng sinh mới có thể nhập vào trong cùng một cảnh giới "Chỉ một không hai" (Bất Nhị) tức là Niết Bàn hay bằng những danh từ khác như trên. Nơi đó không còn có "Tâm Phân Biệt" và "Vọng Niệm ".

Đức Phật, trong Kinh Lăng Nghiêm, có thuyết: "Từ nơi Chơn Tâm, vì hư vọng hiện ra các cảm giác thấy, nghe, hay, biết. Do hòa hiệp vọng sanh ra, rồi cũng do hòa hiệp vọng diệt đi", và trong Kinh Viên giác Ngài nói rõ hơn: "Nầy Thiện nam, tất cả chúng sanh từ hồi nào đến giờ, bị nhiều món điên đảo làm mê mờ tính "Viên giác", như người lạc đường, lầm lộn bốn phương. Điên đảo vọng hiện ra thân và tâm, rồi lầm nhận thân tứ đại giả hợp nầy làm thân mình, chấp cái vọng niệm sanh diệt duyên theo bóng dáng của sáu trần cho là thật tâm của mình" (Phật học phổ thông- khóa VIII- trang 16). Chính vì vọng niệm, phân biệtchúng sinh đã rời cõi Chơn Như và mượn tứ đại: Đất, Lửa, Gió, Nước tạo nên thân xác của mình. Ngoài ra, tâm còn mượn đến Kiến đại để thành hình sáu giác quan: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cùng các thức; và nó cũng mượn đến hư không để thân xác được tăng trưởng và lớn lên.

Theo như vậy, chúng ta thấy rằng trong thân xác con người hay của chúng sinh chỉ là những vay mượn từ tứ đại cho đến thức đại cùng hư không; thì thân xác ấy chẳng phải là thân thật của mọi loài, vì khi chết đi thân tứ đại lại hoàn trả về cho tứ đại; giác quan, các thức lại trả về cho kiến đại, hư không lại trả về cho hư không. Thế thì sao được gọi là "Thường"? Cho nên cái thân xác ấy là Vô Thường; cái "Ngã" của chúng sinh cũng chẳng là cái "Thật Ngã" của chúng sinh. Thế cho nên cái "Ngã" ấy chỉ là cái "Giả Tạm" mà thôi!

Trong thế gian, người Duy vật thì cho rằng con người được sinh ra và lớn lên chỉ một lần, chết là hết; cũng giống như những người chủ trương đoạn diệt. Nhưng ý niệm đó không đơn giản! Vì từ xưa đến nay đều có những hiện tượng xảy ra trong đời sống, khiến người ta phải nghĩ đến vấn đề siêu hình và tái sinh: Một con người kể chuyện thời xa xưa ở một địa điểm nào đó mà họ chưa từng tới, sau khi truy tìm thì quả thật có như vậy. Điều ấy cho chúng ta suy nghĩ như thế nào? Những con người chết đi sống lại kể chuyện ở cõi khác, hoặc những hiện tượng kỳ lạ, ta phải suy nghĩ ra sao? Ngày nay những câu chuyện tương tự như thế được sưu tập lại khá nhiều từ Đông sang Tây và được in thành sách hay đăng tãi trong những tạp chí về khoa học huyền bí, như vậy, giữa những kiếp người nó phải có một sự liên kết nào đó; mà trong đạo Phật gọi cái chủ thể ấy là "Tâm", cái tâm của chúng sinh. Cái Tâm ấy vì "Vô minh" do nơi có "vọng niệm" và "phân biệt" mà rời cõi Chơn Tâm, rồi trầm luân vào cõi Luân hồi. Rồi với nghiệp báo khi còn sống trong những kiếp trước đã tạo nên, chúng sinh lại càng chìm sâu vào luân hồi và biển khổ mênh mông: Các nghiệp báo ấy "nhận chìm" chúng sinh vào trong bể khổ.

Cái "ngã" về thân xác đã chỉ là giả tạm. Cái ngã "Tâm" lại là "vọng tâm", cái vọng tâm ấy cần lau chùi, gột rửa để tìm về "chơn tâm" trong sáng theo tự thể của nó, giống như tấm gương, hay viên ngọc bị bùn nhơ, bụi bám làm lu mờ u tối phải được lau chùi: Lau chùi để được trở lại trong sáng, sáng soi. Tấm gương, viên ngọc thì cần đến người khác lau chùi. Còn nghiệp báo của con người, chúng sinh do chúng sinh ấy tạo ra bằng từ hành động, lời nói, ý nghĩ của chính mình qua lòng tham lam, sân hậnsi mê mê muội; thì chỉ có chúng sinh ấy tự gột rửa lấy mà thôi. Không một ai có thể thay thế hay làm hộ. Cho nên chúng sinh, con người cần phải tu sửa cho đúng hơn, thiện hơn và đẹp hơn. Đức Phật đã từ là một con người, một chúng sinh bình thường tìm được con đường Giác ngộ Chơn lý; và Ngài chỉ lại con đường ấy cho mọi người, chúng sinh. Ngài khẳng định trong các Kinh: Các Đức Phật trong quá khứ, hiện tại hay trong tương lai cũng phải nương vào con đường ấy mà về đến Niết bàn hay đạt đạo Vô Thượng Bồ Đề. Ngài đã đạt được thì mọi chúng sinh cũng sẽ đạt được: "Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành".

Nhưng sao phải Vô Ngã?

Đi tìm lại cái "Thật Tâm" của mình chưa đủ, chúng sinh còn phải đoạn trừ mọi sát, đạo, dâm vọng. Vì tất cả các món đó đều tạo nên nghiệp: Giết hại thì tất phải chịu bị giết trở lại, nên còn phải có kiếp sau; như vậy vẫn phải bị luân hồi sinh tử. Trộm cắp, gây ân oán, đau khổ cho người khác; lừa đảo, dối trá, gạt người thì cũng phải trả món nợ mà mình đã vay, cho nên cũng không tránh được sự luân hồi. Những đam mê về sắc dục, khiến người ta, chúng sinh lưu luyến không từ bỏ cõi dục, thì cũng không thể rời cõi dục để đạt được đạo. Cho nên, trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã dặn dò cùng A Nan: Nếu không đoạn trừ dâm dục sẽ đọa vào ma đạo; không dứt sát hại sẽ đọa vào thần đạo; không bỏ trộm cướp thì đọa vào tà đạo và không trừ vọng ngữ thì thành ma ái kiến, mặc dù chúng sinh đó có tâm trí diệu ngộ, thanh tịnh đến đâu; và như thế tất cũng không đạt được đạo Bồ Đề.

Đó là những điều liên hệ đến cái "Ngã" thân xác. Còn đối với cái "Ngã" của "Tâm" thì sao?

Trong các Kinh Viên Giác, Kinh Kim Cang Đức Phật nói đến các tướng Nhân, Ngã, Chúng sinhThọ Mạng tức là nói đến cái "Tâm phân biệt" Ta, Người, Chúng sinh và cái "Tâm giới hạn" Thọ mạng tướng. Đó là những "Vọng tâm" đã khiến chúng sinh tách rời khỏi "Chơn Tâm" đi vào cõi Luân Hồi. Vì sao? Vì trong cõi Chơn Tâm mọi Tâm thức của chúng sinh đều "Viên dung" (hoàn toàn dung hợp, hòa lẫn với nhau, không loại trừ); và Chơn Tâm ấy lại Viên Dung cùng sáu đại khác là Đất, Lửa, Gió, Nước, Kiến đạiHư Không thành một thể. Thể ấy tuy chung nhưng vẫn có cái riêng, trong mỗi cái riêng vẫn có cái chung theo đúng như câu "Tất cả là một, một là tất cả". Đức Phật đã đưa ra một ví dụ tương đối dễ hiểu là Tâm của mỗi chúng sinh trong vũ trụ vô biên giống như ánh sáng của một ngọn đèn trong căn nhà, tâm của những chúng sinh khác cũng là ánh sáng của những ngọn đèn khác cùng đặt trong cùng căn nhà đó. Tất cả ánh sáng của những ngọn đèn đều chiếu sáng khắp căn nhà, nhưng những ánh sáng từng ngọn đèn không bị lộn lạo lẫn nhau. Điều này được ghi lại trong Kinh Viên Giác như sau:

"Thí như trăm ngàn ngọn đèn, đồng đốt trong một căn nhà, ánh sáng của mỗi ngọn đèn tuy đều chiếu khắp cả nhà, nhưng không có lộn lạo hay lấn diệt lẫn nhau" (Phật Học Phổ Thông- Khóa VIII- trang 51, 52).

Cái thuở các đại còn viên dung thì Thức Tâm của mọi chúng sinh cũng viên dung trong cõi Chơn Tâm, nhưng do vì si mê, không biết lý lẽ và sự việc (Vô minh) mà tâm của từng chúng sinh sinh ra có vọng niệm, phân biệt mà tách rời nhau để rồi mượn tứ đại, kiến đạihư không cấu thành thân xác giả tạm, vay mượn nên mới có sinh, lão, bệnh, tử và có luân hồi. Mỗi chúng sinh trở nên riêng biệt, sống theo bản năng sinh tồn từng loài mà tranh đấu, chém giết, giành giựt, lừa gạt...lẫn nhau bằng đủ mọi cách. Chính vì vậy mà tạo nên nghiệp để rồi phải chịu theo luật nhân quả trong vòng luân hồi triền miên.

Muốn thoát ra, chúng sinh phải tự mình phấn đấu với mọi dục vọng, tham ái; phải dứt bỏ những nhân xấu, phát triển nhân thiện bằng thực hiện con đường Đạo đế hay áp dụng những con đường trong 37 phẩm trợ đạo, tức là những phương cách giúp đỡ người tu thực hiện để đạt được đạo như: Tứ niệm xứ- Tứ chánh cần- Tứ như ý túc- Ngũ căn- Ngũ lực- Thất bồ đề phần- Bát chánh đạo để tạo cho mình được sự dũng mãnh, tinh tấn, cương quyết thoát khỏi vòng trầm luân, khổ ải hoàn tất được con đường giải thoát, đạt đến Niết Bàn (Diệt đế).

Theo như vậy, chúng ta cũng có thể hiểu rằng vì cái "Ngã" khởi đầu mà "Vọng niệm" và "Tâm phân biệt" khởi sinh, cho nên muốn trở về với lúc ban đầu ta cần phải từ bỏ Tâm phân biệtvọng niệm, tức là chúng ta không thể thấy cái Ta của mình hơn Người mà thấy cái Ta cũng như Người. Ta, Người cũng như mọi Chúng sinh và Ta, Người, Chúng sinh mãi mãi hòa hợp, viên dung chứ không phải trong một khoảng thời gian ngắn hay thật dài, hoặc trong một thời gian giới hạn nào đó tức là Thọ mạng tướng vậy.

Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật đã nói về bốn tướng Ngã, Nhân, Chúng sinhThọ mạng như sau:

-Nầy Thiện nam! Các chúng sanh đời sau, bởi không rời được bốn tướng, nên tuy trải qua nhiều kiếp, siêng năng tu hành khổ hạnh, nhưng chỉ thành hữu vi mà thôi, chớ không thể chứng được Thánh quả" (Phật Học Phổ Thông- Khóa VIII- trang167).

Thấy "Cái Ta" (Ngã) hòa hợp chung với Người (Nhân) và Chúng sinh (Chúng sinh) mãi mãi, vô cùng tận (Thọ mạng tướng) tức là đã dứt bỏ đi cái Ngã hay nói đúng hơn là "Vô Ngã". Diệt cái Ngã cá nhân để biến cái Ngã ấy viên dung cùng tất cả mọi cái Ngã của chúng sinh và chung với các đại khác: Đó là một điều cần phải có trong Đạo Phật để người tu hành đạt được đạo Vô Thượng Bồ Đề.

Trong Kinh Kim Cang (Phật Học Phổ Thông- khóa XII), Đức Phật đã thuyết như sau:

-"Phải xa lìa tất cả các chấp tướng, mới gọi là chư Phật". (Trang 109).

-"Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Nếu có người phát tâm Bồ Đề, thì phải dụng tâm như vầy: Ta hóa độ tất cả chúng sanh, nhưng không thấy có mình độ và chúng sanh được độ. Tại sao vậy? Nếu Bồ Tát còn thấy mình độ và chúng sanh được độ, thì Bồ Tát còn tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh và tướng thọ giả, tức nhiên không phải là Bồ Tát". (Trang 134-135). Và:

-"Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Ông chớ lầm tưởng: Như Lai nghĩ rằng: "Ta độ chúng sanh". Tại sao vậy? Nếu Như Lai có nghĩ: "Ta độ chúng sanh", thì Như Lai còn chấp bốn tướng Ngã, Nhơn, Chúng sanhThọ giả, tức nhiên không phải Như Lai. Bởi thế nên, Như Lai thật không có độ chúng sanh nào cả". (Trang 168).

Nói tóm lại, sau khi thành Phật hay đúng hơn trở thành Bậc Giác Ngộ, Đức Phật mới nói lại những Chân Lý đã có không biết tự bao giờ và chỉ dẫn con đường để trở thành người giác ngộ mà Ngài cũng như vô số Phật đã thành đạo trong thời quá khứ, hiện tại đang thành cũng như những vị Phật trong tương lai sẽ thành phải trải qua. Con đường đó không khác nhưng tùy theo mỗi con người, chúng sinhtrình độ có sai khác nên họ sử dụng phương pháp có khác nhau, nhưng chung qui cũng đi đến mục đích giải thoát. Sự ra đời của Đức Phật có hai mục đích chính: Một là chỉ rõ cho chúng sinh để chúng sinh được: Khai (mở ra, biết)- Thị (thấy)- Ngộ (gặp, hiểu biết, nhận thức)- Nhập (thấm vào, hiểu và thực hành) Phật Tri Kiến (những điều mà Bậc giác Ngộ thấy, biết) như mục đích rõ ràng khi Phật thuyết về Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Hai là hướng dẫn con đường, lối tu (Đạo sư) sao cho đúng và tùy theo từng trình độ để chúng sinh có thể thực hành con đường giải thoát đi đến kết quả và thoát được vòng sinh tử, luân hồi tìm về nơi an vui, hạnh phúc, thường hằng. Thực ra con người, chúng sinh tu hành để thành Phật chỉ là tìm con đường trở về nơi chốn cũ mà trước kia mình đã ra đi như Đức Phật đã nói "chúng sinh vốn đã thành Phật từ xưa tới giờ" hay khi thành Phật cũng như là thoát khỏi "giấc mộng ngày hôm qua". Sở dĩ như vậy vì do Vô minhcon người, chúng sinh mới đi vào cõi mộng. Giấc mộng ấy không thật có cho nên những pháp để thoát khỏi giấc mộng mới được xem là "huyễn ảo" mà thôi.

Chúng sinh bị rơi vào vòng trầm luân, luân hồi vì do sự Vô minh, nhưng đó cũng là điều kiện để tôi luyện cho chúng sinh thành bậc giác ngộ hiểu thấu rõ sự và lý để không bao giờ bị Vô minh một lần nữa, giống như Đức Phật đã tỉ dụ: "Quặng vàng đã được tôi luyện thành vàng thì không bao giờ trở thành quặng nữa".

Cuối cùng, điều kiện "Vô ngã" là điều kiện tất có để chúng sinh có thể hòa nhập vào trong đại thể (sự viên dung của Chơn Tâm cá nhân trong Thức Tâm, cũng như thức Tâm cùng với sáu đại khác) của vũ trụ khi đã thành đạo Vô Thượng. Nếu không, "cái Ta ngã mạn" sẽ tự đào thải mình nằm ngoài vòng đai của Đại thể, đôi khi Cái Ta ngã mạn ấy biến chúng sinh thành một "nhân vật" đem nhiều tai họa đến cho không biết bao nhiêu người bởi vì sự "Tẩu hỏa nhập ma" của chính mình.

Bởi thế cho nên đi tìm Chân lý cũng thật là khó lắm thay!
Nguyên Thảo, 14-06-07
(Đạo Phật Ngày Nay)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6464)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3868)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5513)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10613)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6142)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9419)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6481)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 6027)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7537)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7362)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5248)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8167)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5977)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9697)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7431)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7488)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6292)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5359)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5918)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5708)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3994)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5747)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4128)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7579)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5756)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 22001)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5670)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7127)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5066)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6472)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5848)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5033)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7081)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6069)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5599)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5917)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 6046)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6872)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6455)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6105)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6538)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6221)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6415)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5635)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6946)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4583)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7819)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6076)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7326)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7757)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5532)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5168)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5713)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5561)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5547)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5043)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4308)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6101)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5655)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant